Thứ Hai, 5 tháng 3, 2018

Một số khái niệm phương pháp luận



VỀ VIỆC DẠY VÀ HỌC PHƯƠNG PHÁP LUẬN

Các học phần về phương pháp nghiên cứu ở Việt Nam luôn được đặt một cái tên rất dài và gây hoang mang: Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học trong ABC. ABC có thể là Tâm lý học, Kinh tế học, Xã hội học, v.v... Còn ở Anh thì khác, hoặc ít nhất là ở trường tôi. Mặc dù là một chương trình học nặng tính nghiên cứu hàn lâm, lớp thạc sĩ của tôi hoặc rộng hơn là cả khoa tâm lý học ở đại học Surrey không hề có một môn học nào tên như vậy. Nguyên nhân là vì môn phương pháp được lồng vào từng học phần lẻ.

Ví dụ, bạn sẽ được học phương pháp nghiên cứu của tâm lý học phát triển, tâm lý học nhận thức, lịch sử tâm lý học, tâm lý học sinh học (hay khoa học thần kinh) thông qua một bài tập mà bạn sẽ phải tự làm nghiên cứu với những quy trình y như một nghiên cứu thật. Chỉ khác là nó là nghiên cứu thu nhỏ và giảng viên sẽ cung cấp sẵn cho bạn số liệu, hoặc có khi là các gợi ý về câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết thống kê và cách chọn kiểm định phù hợp thông qua các buổi tutorials. Như vậy, bạn không có cảm giác bị ‘nhồi sọ’ lý thuyết từ muôn chục kiếp trước mà sẽ được tự mình trải nghiệm những phương pháp rất cụ thể của một nhánh tâm lý học nhất định.

Một ưu điểm của thiết kế môn học kiểu này nữa là nó giúp sinh viên tránh được cảm giác trừu tượng thường gặp khi phải học ‘chay’ môn phương pháp. Từng môn học vì vậy trở nên vô cùng thú vị. Nhờ kiểu học này mà tôi đọc cả trăm nghiên cứu khoa học, đó là còn chưa kể những bài phục vụ cho luận văn - không phải đọc lướt nắm ý không thôi (superficial level) mà là đọc phân tích (analytical level), phân tích phương pháp và cách lập luận của từng bài, vì vậy mà tôi luôn có những ví dụ thực tế lấy từ nghiên cứu của chính mình hoặc từ nghiên cứu của người khác để minh họa cho bài học. Mặc dù bạn sẽ không được học nguyên một quy trình nghiên cứu từ lúc phê bình tài liệu đến lúc bàn luận kết quả một cách hệ thống, nhưng bạn học được rất nhiều bằng cách tự mày mò, tự đọc nghiên cứu, và tự quyết định và chịu trách nhiệm giải trình về chúng. Quá trình này cho bạn kiến thức trong vế thứ hai của tên môn học tại các trường Đại Học Việt Nam - Phương pháp nghiên cứu khoa học.

Nhưng còn vế thứ nhất - Phương pháp luận, thì sao? Câu trả lời là: tự đọc trong sách. Ở thư viện trường tôi có rất nhiều sách phương pháp luận nhập môn cho sinh viên tâm lý nhưng tôi đã sơ suất không mua về cuốn nào để bây giờ dùng làm sách tham khảo cho việc dạy học. Các sách triết khác hoặc các tài liệu về triết học trên mạng như bách khoa toàn thư triết học của Stanford mặc dù đã khá cô đọng nhưng vẫn rất hàn lâm. Hàn lâm của các môn khác đã đủ mệt, huống chi lại là hàn lâm kiểu …triết. Cho nên bài viết này ra đời với mong muốn hệ thống hóa một số khái niệm cơ bản trong phương pháp luận. Bạn đọc có thể dùng các từ khóa (từ in nghiêng, tiếng Anh, trong ngoặc) để tra cứu thêm nếu muốn.

TẠI SAO NÊN ĐỌC VỀ BẢN THỂ LUẬN VÀ NHẬN THỨC LUẬN?

Khi viết bài này tôi tình cờ đọc một bài viết của một nghiên cứu sinh tiến sĩ ở Úc kể rằng anh đã loay hoay vì tự nghi ngờ chính quan điểm phương pháp luận của mình cho đến khi đọc về các quan điểm nhận thức luận chính thống của khoa học để rồi vỡ òa vì tìm được tiếng nói chung với tư duy của các vị tiền bối khoa học (xem bài viết tại https://goo.gl/Exp2db). Như vậy, có vẻ như đúng là người ta không nhắc đến phương pháp luận ở lớp hoặc là sinh viên nghe về chúng như nước đổ lá môn. Cũng vì sợ phải đối diện với sự trừu tượng của phần phương pháp luận, sợ sinh viên bỏ lớp mà tôi đã không đưa phần này vào bài giảng mà chỉ điểm sơ qua một vài khái niệm có liên quan trực tiếp và không thể không nói đến để làm nền tảng cho phương pháp định lượng. Sau này, tôi sẽ cố gắng khắc phục điểm này và đưa các khái niệm triết học vô bài sao cho chúng ít khô khan nhất có thể. Bởi lẽ, quan điểm phương pháp luận là sợi chỉ dẫn đường cho phương pháp nghiên cứu của bạn xuyên suốt quá trình từ đặt câu hỏi, xây dựng cơ sở lý thuyết, thu thập dữ liệu cho đến bàn luận kết quả nghiên cứu. Nắm rõ phương pháp luận là một điều kiện tiên quyết của người nghiên cứu sinh cao học và của những nhà khoa học nghiêm túc và muốn làm những nghiên cứu có giá trị khoa học.
----

BẢN THỂ LUẬN VÀ NHẬN THỨC LUẬN

Có hai câu hỏi hay là hai phạm trù triết học xoay quanh việc tìm kiếm tri thức của con người. Câu hỏi triết học thứ nhất nói về bản chất của sự thật (nature of reality).Điều gì tồn tại thực sự trên đời? Có cái gì trên đời mà ta cần phải đi tìm học?WHAT to study or to gain knowledge about? Phạm trù triết học trả lời cho câu hỏi này được gọi là BẢN THỂ HỌC (Ontology), nghĩa là học về sự tồn tại (the study of being) hay là về bản chất của sự thật (the nature of reality). Câu hỏi triết học thứ hai bàn về cách mà ta đạt được tri thức. Coi như ta biết những sự thật, những điều thực sự tồn tại ngoài kia là gì rồi, bây giờ làm sao ta biết được cách tiếp cận chúng, và bằng cách nào? HOW to acquire knowledge? Làm sao ta giải thích thỏa đáng cho một tuyên bố của ta về một điều tồn tại ngoài kia? HOW to turn a belief into a justified belief? Phạm trù triết học trả lời cho câu hỏi này được gọi là NHẬN THỨC LUẬN (Epistemology).

BẢN THỂ HỌC

Có nhiều quan điểm về bản thể học và các quan điểm này khác nhau ở hai câu hỏi cốt lõi:
1. Sự thật tồn tại một cách chủ quan (subjective) hay khách quan (objective)? Nói cách khác, sự thật có tồn tại độc lập với suy nghĩ của con người không?
2. Sự thật chỉ gồm những thứ cụ thể (the specifics) hay là cả những thứ phổ quát (the universals)?
Thứ cụ thể là thứ mà các thuộc tính của nó có thể quan sát được và ngược lại, thứ phổ quát là những kháin niệm trừu tượng và không quan sát được. Ví dụ, con chó soi gương và vẫy đuôi khi thấy mình trong đó là thứ quan sát được. Còn trí thông minh của con chó là thứ trừu tượng, không thể quan sát được. Có nhiều quan điểm về bản thể học, ta hãy thử xem qua ba quan điểm sau và để ý xem chúng khác nhau như thế nào dựa trên cách chúng trả lời hai câu hỏi trên.

THUYẾT DUY TÂM - IDEALISM
Những người theo thuyết duy tâm quan niệm rằng sự thật tồn tại duy nhất là ở trong suy nghĩ của con người. Không hề có sự tồn tại của thế giới vật chất bên ngoài ý chí con người bởi vì tất cả những tri nhận (perceptions) của con người về thế giới thực ra đều bắt nguồn từ các tiến trình vận động của tâm trí con người (mental processes). Sự thật là một khái niệm tạo dựng bởi tâm trí (mental construct). Cái ôm, tình yêu, điểm 10, trí thông minh là có thật, nhưng chỉ trong suy nghĩ của ta. Như vậy, với những nhà duy tâm, câu hỏi thứ hai của bản thể học không còn cần thiết phải trả lời nữa. Dù cụ thể hay phổ quát không quan trọng, sự tồn tại hay không tồn tại của chúng do tư tưởng con người quyết định.

THUYẾT DUY VẬT - MATERIALISM
Ngược lại với thuyết duy tâm, những người theo thuyết duy vật cho rằng sự tồn tại duy nhất trên đời là vật chất. Chúng tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào suy nghĩ của con người. Tất cả những tư tưởng và tiến trình phi vật chất khác như suy nghĩ, nhận thức hoặc cảm xúc của con người đều là những sản phẩm phụ của quá trình tương tác giữa não bộ và các thế giới vật chất bên ngoài. Thuyết duy vật cũng như duy tâm, không quan tâm nhiều đến câu hỏi thứ hai của bản thể học, đó là sự phân biệt giữa cụ thể và phổ quát. Chừng nào sự tồn tại là vật chất thì còn được công nhận như một sự thật cần đi tìm hiểu. Như vậy, có thể thấy rằng thuyết duy vật mặc nhiên phủ nhận các yếu tố phổ quát, trừu tượng khỏi hành trình tìm kiếm tri thức.

THUYẾT HIỆN THỰC - REALISM
Tương tự như thuyết duy vật, những người theo chủ nghĩa hiện thực cũng cho rằng sự tồn tại duy nhất trên đời là ở dạng vật chất. Nhưng điều khác biệt là người theo thuyết hiện thực thừa nhận sự tồn tại của những yếu tố trừu tượng, chẳng hạn như hạnh phúc (happiness) hay trọng lực (gravity). Mỗi nhánh nhỏ của thuyết hiện thực đều có những quan điểm riêng về dạng thức tồn tại của những điều trừu tượng. Plato là một nhà triết học cổ đại theo chủ nghĩa hiện thực. Điều thú vị ở chỗ, mặc dù ông công nhận sự tồn tại của sự thật khách quan, nhưng ông cho rằng sự thật này tồn tại độc lập với tư tưởng con người và cũng độc lập với thế giới vật chất (the physical world). Theo ông, bởi vì giác quan con người rất dễ bị đánh lừa nên cái thế giới vật chất mà con người tri nhận được luôn mắc sai lầm, do đó cũng không phản ánh thực tế về sự tồn tại của sự thật.
Nguồn: Internet


Thuyết hiện thực trong khoa học (scientific realism) có quan điểm ôn hòa hơn khi cho rằng chúng ta có thể quan sát sự vật hiện tượng vật chất và sau đó tổng hợp thành những quy luật chung. Những quy luật chung này được diễn đạt bằng những khái niệm mang tính trừu tượng. Hiện tượng trái banh khi thả sẽ rơi xuống đất là biểu hiện của quy luật về trọng lực. Hành vi soi gương và vẫy đuôi khi nhìn thấy mình trong gương là biểu hiện của khả năng tự nhận biết chính mình (self-awareness), một dạng thức của trí thông minh theo mô hình của Gardner. Nhà khoa học theo chủ nghĩa hiện thực công nhận (hoặc là tạm thời giả định - provisionally assume) các khái niệm trừu tượng bởi vì nó hữu ích và vô cùng cần thiết trong việc thiết lập các giả thuyết khoa học. Thử nghĩ xem bạn sẽ khó khăn thế nào để tỏ tình bằng câu ‘Anh yêu em.’ nếu bạn không được dùng từ ‘yêu’ hay ‘tình yêu’ để bày tỏ ngắn gọn, súc tích nhất cho tất tần tật những hành vi cưa cẩm trước đó như mua hoa, tặng quà, nấu cho ăn hay chở người thương đi xem phim.

NHẬN THỨC LUẬN

Nhận thức luận, hay là lý thuyết về tri thức. Có nhiều quan điểm nhận thức luận. Bài viết này sẽ bàn về hai quan điểm quan trọng nhất.

THUYẾT DUY LÝ - RATIONALISM

Người theo chủ nghĩa duy lý cho rằng kiến thức chỉ có thể có được bằng cách suy luận (reasoning). Người ta dùng tư tưởng của mình để lập luận và đưa ra kết luận về sự vật hiện tượng mà không cần thông qua trải nghiệm của các giác quan về thế giới xung quanh. Những nhà duy lý đầu tiên là Plato ở thời kỳ cổ đại và Rene Descartes ở đầu thời kỳ khai sáng. Quan điểm hiện thực về bản thể học của Plato cho rằng sự thật chỉ tồn tại ở dạng vật chất và độc lập với suy nghĩ của con người nhưng vì giác quan của con người luôn mắc sai lầm, nên cách duy nhất để đi tìm sự thật về thế giới vật chất đó là thông qua suy luận. Tương tự, Descartes - người đương thời với Galileo và cũng sống trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng khoa học, đã trở nên nghi ngờ mọi kiến thức mà ông học được từ sách vở từ thời kỳ cổ đại của Plato và Aristotle tích lũy qua suốt đêm trường trung cổ ở Châu Âu, đến mức ông chỉ chỉ còn giữ lại một niềm tin duy nhất chắc chắn, “Tôi tư duy nên tôi tồn tại.” Cũng giống như Plato, ông cho rằng giác quan con người dễ bị đánh lừa nên không đáng tin, vì vậy chỉ có suy luận mới là con đường tìm kiếm tri thức đúng đắn nhất.

THUYẾT DUY NGHIỆM - EMPIRICISM
Ngược lại, với những người theo chủ nghĩa thực nghiệm như Aristotle và Galileo, trải nghiệm bằng giác quan là con đường quan trọng để đạt đến tri thức về thế giới. Với những nhà chủ nghĩa duy nghiệm cực đoan hơn như Francis Bacon, David Hume và các nhà thực chứng sau này (the positivists), như nhóm Vienna Circle, thì trải nghiệm giác quan là cách thức duy nhất để đi tìm tri thức. Aristotle cho rằng con người sinh ra là một tấm bảng trắng (tabula rasa) và tri nhận về thế giới sẽ lấp đầy tấm bảng đó. Ông vẫn sử dụng suy luận logic và dùng các khái niệm phổ quát để khái quát hóa các quan sát của mình và gọi đó là các nguyên tắc đầu tiên hay còn gọi là tiền đề (first principles/ premises). Có thể gọi ông là một nhà thực nghiệm ôn hòa. Tuy nhiên, điểm yếu của Aristotle là ở chỗ các quan sát của ông không có hệ thống nên ông mắc sai lầm (bias) có khi ngay từ các tiền đề, từ đó dẫn đến kết luận sai. Sau này, Galileo sử dụng quan sát một cách có hệ thống, có kiểm soát bằng thực nghiệm (experiments) kết hợp với kiểm chứng bằng tư duy logic (thought experiments) về cùng một sự vật, hiện tượng cho các giả thuyết của mình. Ông đánh giá cao thực nghiệm nhưng cũng xem trọng suy luận logic. Quyển sách ‘The Book of Nature’ trong đó ông giải thích các kiến thức về tự nhiên bằng toán học là minh họa kinh điển cho vai trò của logic toán học bên cạnh quan sát có hệ thống trong việc tìm ra tri thức về thế giới.

Bài viết tiếp theo sẽ bàn về một số khái niệm phương pháp luận khác như diễn dịch, quy nạp và phương pháp nghiên cứu của khoa học ngày nay: diễn dịch - giả thuyết (hypothetico-deductive method) và thực nghiệm kiến tạo (constructive empiricism). Bạn sẽ nhận ra rằng các quan điểm nhận thức luận của khoa học hiện đại đã trở nên ôn hòa và linh hoạt hơn so với các quan điểm của khoa học từ trước thế kỉ 20.

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

Tư duy hằng ngày: khoa học hay không khoa học?*


Nguồn: Một cảnh trong phim Spectacular Now. 
Cô gái luôn tư duy kỹ càng và anh chàng vô lo vô nghĩ phải lòng nhau

Phương pháp khoa học: Để có một khối óc sáng suốt

Phương pháp khoa học trước hết là một cách tư duy mà ta áp dụng trong đời sống hằng ngày. Chúng ta không thể trông cậy vào các phương pháp ngoài khoa học để đi tìm lời giải về thế giới xung quanh. Cách tư duy độc lập và khoa học giúp ta tư tưởng rõ ràng, sáng suốt. Người xưa đã có câu: “Một thân thể không đau, một tinh thần không loạn, đó là chân hạnh phúc của con người.” hẳn ý muốn nhắn nhủ với ta rằng nếu muốn trở thành con người thực thụ, ta không chỉ cần phải rèn luyện để có một thân thể khỏe mạnh mà còn phải đào luyện cho chính mình một khối óc sáng suốt.
Bạn hãy thử xem ví dụ sau. Anh Bình là một công chức trung lưu, sống tại một khu dân cư mới, anh thường đậu chiếc xe hơi của mình ở trước nhà. Anh có thói quen đọc báo giấy và thường mua báo tại một sạp quen trong thành phố. Gần đây, anh sử dụng dịch vụ đặt báo giao tại nhà để có thể đọc báo trước khi đến sở làm. Người giao báo cho anh là một cậu bé trạc 12-14 tuổi. Cũng từ hôm ấy, anh Bình phát hiện chiếc kính chiếu hậu của xe anh bị xô lệch sang một bên. Sự trùng hợp này khiến anh Bình nghi vấn rằng cậu bé bán báo có thể là có liên quan đến sự kiện kính hậu của anh bị xô lệch.
Để kiểm tra nghi vấn của mình, anh Bình quyết định nấp và quan sát từ bên hông nhà vào thời điểm cậu bé đến giao báo. Hôm ấy, kính của anh ko bị xô lệch. Như vậy, sự kiện kính bị xô lệch và sự kiện cậu bé đến giao báo dường như không có liên quan với nhau. Tuy nhiên, có một khả năng xảy ra, đó là cậu bé bằng cách nào đó, nhận biết sự có mặt của anh ở bên hông nhà hôm ấy và đã không hành động.
Để kiểm tra thêm 1 lần nữa, anh Bình quyết định hủy đặt hàng báo. Hôm sau, cậu bé không giao báo nữa, và anh Bình phát hiện kính hậu xe vẫn bị xô lệch. Ta thấy là có thêm một bằng chứng nữa cho thấy không có mối quan hệ giữa sự kiện cậu bé giao báo và sự kiện kính bị xô lệch, và nghi vấn ban đầu của anh Bình là sai.
Như vậy, anh Bình trong câu chuyện trên đã kết hợp quan sátsuy luận để đi tìm lời giải cho nghi vấn của mình về thế giới rằng, có hay không mối quan hệ giữa sự kiện cậu bé giao báo và sự kiện kính xe bị xô lệch. Nếu anh phán đoán nóng vội, chỉ dựa trên suy đoán chủ quan của bản thân, có lẽ anh đã đi đến một kết luận sai lầm không đáng có về người khác.
Đến đây, nếu bạn là fan của Conan Doyle bạn chắc sẽ nhận ra rằng óc quan sát nhạy bén và suy luận sắc sảo của nhân vật nhà thám tử tài ba Sherlock Holmes là thứ mà ta có thể học hỏi để có được khả năng tư duy khoa học và rành rọt về các sự kiện của đời sống.

Phương pháp ngoài khoa học: Để có một khối óc hạnh phúc

Tuy nhiên, trong cuộc sống thường nhật, không phải lúc nào chúng ta cũng cần phải căng mình lên để suy nghĩ mọi thứ với một đầu óc sáng suốt và khoa học hoàn hảo. Để cho cuộc sống trở nên hiệu quả và có thể nhanh chóng giải quyết vấn đề, ta thường dựa vào kinh nghiệm và trực giác để ra quyết định và hành động. Những cách thức này ta thường sử dụng trong các tình huống của đời thường vì chúng không những giúp ta kịp thời phản ứng lại đòi hỏi liên tục cấp kỳ của cuộc sống mà còn giúp ta tiết kiệm nguồn lực tâm trí, để dành nguồn lực đó cho một vài công việc ít ỏi khác nằm trong chuyên môn của ta hơn. Tư duy khoa học cho tất cả mọi câu hỏi và quyết định trong đời sống là điều không tưởng bởi nó sẽ khiến cho bạn bị kiệt sức. Tương tự, trong môn tư duy phản biện, sinh viên được học rằng tư duy phản biện trong đời sống không hẳn là tốt. Một người luôn ‘critical’ trong mọi vấn đề sẽ làm cho chính mình và những người xung quanh mệt mỏi. Đôi khi, bạn phải để cho người khác cầm tay lái và bạn chỉ việc ngồi sau ngắm cảnh, chẳng bận lòng về việc mình sẽ đi đâu, miễn là mình sẽ được đến một nơi tốt đẹp và hợp ý.
Ta thử lấy một ví dụ nôm na.
Bạn muốn mua một đĩa nhạc jazz mới để nghe dịp Tết mà bạn băn khoăn không biết chọn ai. Có quá nhiều nghệ sĩ jazz đương đại, bạn vừa hào hứng trước ý nghĩ sẽ khám phá ra một album tuyệt hảo của một nghệ sĩ jazz trẻ**, lại vừa nản lòng vì có những nghệ sĩ jazz không có gì nổi bật và không chạm được bạn. Thay vì tự loay hoay để tìm cho ra một lựa chọn hợp nhất với ý mình, bạn đề nghị những người bạn của mình góp ý. Những người mà bạn chơi chung ắt hẳn có những điểm giống bạn, vì vậy, bạn có thể tin cậy vào chọn lựa của họ rằng đó là một lựa chọn hợp với bạn mặc dù gu nhạc của bạn có thể không hẳn là trùng khớp với gu của họ. Nhưng bạn đâu cần độ chính xác hoàn hảo trong trường hợp này. Khả năng bạn tìm được một lựa chọn phù hợp vẫn cao hơn tìm kiếm ngẫu nhiên gấp nhiều lần mà lại ít hao tổn tâm trí cho việc tìm kiếm và chọn lựa. Hẳn là không khó để giải thích vì sao mối quan hệ và sự kết nối với những người xung quanh là một trong những yếu tố có tương quan cao nhất với sự hạnh phúc của con người (nghiên cứu của Harvard, nghe tóm lược ở https://goo.gl/BNfEjX)
Ví dụ trên có liên quan gần gũi đến khái niệm nghịch lý của chọn lựa (the paradox of choice) và vai trò của gắn kết xã hội (social connection) trong sự hạnh phúc của con người. Bạn có thể liên hệ tới nhiều tình huống phức tạp khác khi mà bạn không tự đi tìm lời giải cho vấn đề của mình. Trong nhiều tình huống, kiến thức có được từ kinh nghiệm của chính ta hay của người khác, từ trực giác tinh nhuệ có được do sự uyên bác của nhà chuyên môn, hoặc từ tập quán lâu đời của dân tộc là rất có ích cho đời sống thường ngày bởi nó giúp ta sống hiệu quả và hạnh phúc hơn.
Triết học cổ xưa, là tổ tiên của các ngành khoa học hiện đại như ta thấy ngày nay, đã từng là một nguồn tri thức dẫn dắt đời sống của con người. Mặc dù khoa học đã thay đổi, cập nhật nhiều kiến thức xưa đó, nhiều tác phẩm triết học vẫn còn giữ nguyên giá trị đến ngày nay. Chẳng hạn, Đạo Phật vừa là một tôn giáo, vừa là một triết lý sống. Hiểu theo nghĩa nào thì ta cũng thấy là, các tàng thư Phật Giáo, dù không có tác phẩm nào do chính Đức Phật hoặc các học trò trực tiếp của Người viết ra, đều chứa rất nhiều tri thức mà người ta có thể học hỏi và ứng dụng vào đời sống.
Tôn giáo là một ví dụ kinh điển về việc chọn lựa niềm tin và cách thức để đạt được sự hiểu biết của con người. Người bạn đời của tôi tin rằng trên đời có chúa và ta không bao giờ có thể thấy chúa bởi chúa là đấng sáng tạo và ngự ở một thượng tầng mà người cõi tạm chúng ta không được tạo ra để nhìn thấy chúa bằng mắt thường. Là một con người lý trí và theo thuyết không thể biết (bất khả tri), tôi cứng rắn nói với anh rằng chừng nào tôi còn chưa kiểm chứng được bằng giác quan về sự tồn tại của chúa, chừng đó tôi còn chưa bị thuyết phục.

"Em có thấy quang phổ hoặc sóng âm không? Chúng mình không nhìn được những ánh sáng nằm ngoài phổ nhìn thấy được (khoảng từ 380 - 700 nm) hoặc nghe được các âm thanh có tần số quá thấp (dưới 16Hz) hay quá cao (trên 20 ngàn Hz), điều đó đâu có nghĩa là những loại ánh sáng hoặc âm thanh đó không tồn tại?".

Lời giải thích của anh làm tôi bối rối. Quả thật, suy cho cùng thì nguồn tri thức đến từ khoa học cũng chỉ là một kênh tiếp cận tri thức về thế giới. Tri thức của khoa học thường đến chậm và rất dè dặt so với trí tưởng tượng và đời sống tâm linh phong phú của con người. Hơn nữa, trong các bài sau bạn sẽ thấy, khoa học không phải là cứu cánh siêu đẳng và được miễn nhiễm với mọi sai sót. Khoa học nằm trong bàn tay con người, mà con người có thể mắc sai lầm. Như vậy, hiểu và thực hành phương pháp khoa học không có nghĩa là chối bỏ, phủ nhận những lối tư duy khác mà nghĩa là trở nên vị tha hơn với sự khác biệt.
Đến đây bạn thấy rằng có hai phương pháp để tiếp cận tri thức phục vụ cho các nhu cầu của cuộc sống thường ngày. Chọn cách tư duy nào tùy thuộc vào mục đích và ưu tiên của bạn. Nếu bạn là một nhà chuyên môn, bạn không thể viện lý do rằng vì muốn tiết kiệm nguồn lực não bộ, muốn sống hạnh phúc hoặc vì bạn là người tu tập theo Phật pháp nên bạn sử dụng cách thức ngoài khoa học để trả lời câu hỏi hoặc để đưa ra một quyết định mang tính chuyên môn. Nếu bạn là một chuyên gia kỳ cựu, bạn có thể tận dụng trực giác nhạy bén và kiến thức uyên bác mà bạn dày công tích lũy. Nhưng như vậy chưa đủ bởi nó có nguy cơ dẫn đến sai lầm. Điều bạn cần làm là sử dụng phương pháp khoa học như một giàn giáo vững chãi cho ngôi nhà chuyên môn của mình. Sinh viên tâm lý là những nhà tâm lý học tương lai và giống như nhà chuyên môn dù ở bất kỳ lĩnh vực nào khác, họ cũng cần có phương pháp khoa học. Trong khi phương pháp khoa học trong cuộc sống thường ngày là một cách tư duy bằng quan sát và suy luận đơn giản, phương pháp khoa học trong nghiên cứu tâm lý và trong các ngành khoa học nói chung là một hệ thống tư duy tuân thủ theo những nguyên tắc nghiêm ngặt và chặt chẽ hơn rất nhiều mà nhà khoa học dùng để đi tìm câu trả lời về thế giới xung quanh.

----

*Bài đọc thêm, không phải là bài trong chương trình giảng dạy.
**Tôi đã từng làm được điều này và tìm ra rất nhiều nghệ sĩ jazz tuyệt vời mà tôi nghe mê mệt và không biết chán suốt mấy năm cho tới tận bây giờ như Katie Melua, Sophie Milman và Madeline Peyroux, chỉ bằng việc nghe Norah Jone và Billie Holiday liên tục trên Last.fm nhờ vào thuật toán giúp đề xuất nhạc cùng gu cho người nghe dựa vào playlist cá nhân của họ. Đề xuất của Youtube ít khi đáp ứng được gu của tôi ở mức đỉnh của đỉnh như Last.fm (gần như là trên 90%). Đáng tiếc là bây giờ Last.fm không còn cung cấp dịch vụ Scrobble này cho thị trường Việt Nam nữa rồi (và có lẽ là nhiều nơi khác ở ngoài Mỹ và Canada).

Thứ Sáu, 16 tháng 2, 2018

Phương pháp khoa học

Ý kiến chủ quan, tri thức kinh nghiệm có thể dẫn tới sai lầm. Trong đời sống hằng ngày, cách tư duy độc lập và khoa học giúp ta tư tưởng rõ ràng, đưa ra những quyết định đúng đắn, tránh những sai lầm do suy đoán cẩu thả, tùy tiện, và tranh biện thiếu hiểu biết. Đối với nhà khoa học, áp dụng phương pháp khoa học làm tăng xác suất ta tìm ra được lời giải thích có hiệu lực cho sự vật hiện tượng xung quanh.

Trong khi phương pháp khoa học trong cuộc sống thường ngày là một cách tư duy bằng quan sát và suy luận đơn giản, phương pháp khoa học trong nghiên cứu tâm lý và trong các ngành khoa học nói chung là một hệ thống tư duy tuân thủ theo những nguyên tắc nghiêm ngặt và chặt chẽ mà nhà khoa học dùng để đi tìm câu trả lời về thế giới xung quanh. Phương pháp khoa học có thể được mô tả bằng 6 nguyên tắc cốt lõi. Nói cách khác, một nghiên cứu phải thỏa mãn đầy đủ các yếu tố này mới được gọi là một nghiên cứu khoa học.

Thứ nhất, câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu phải có tính thực chứng, tức là có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm (empirically testable). Điều này có nghĩa là giả thuyết của bạn có thể được phủ nhận hoặc ủng hộ bằng cách thu thập dữ kiện quan sát được.

Ví dụ, tôi nói với bạn tôi rằng (tôi giả thuyết là) con chó Mi Mi của tôi là con chó thông minh hơn những con chó bình thường. Tuy nhiên ta giả định rằng chó thì không biết tiếng người và không biết viết nên không làm được các bài kiểm tra IQ. Như vậy, ta không thu thập được dữ kiện gì để quan sát; trong trường hợp này, giả thuyết của tôi là không mang tính thực chứng.

Thứ hai, nghiên cứu và kết quả của nghiên cứu có thể lặp lại (replicable). Điều này có nghĩa là ta phải luôn có thể tiến hành lại nghiên cứu ban đầu. Và nếu kết quả nghiên cứu chỉ lặp lại một hoặc rất ít lần, thì có khả năng là kết quả của nghiên cứu ban đầu chỉ là ngẫu nhiên. Một giả thuyết có độ tin cậy cao là một giả thuyết mà kết quả ban đầu của nó được lặp lại nhiều lần.

Ví dụ, tôi có thể thuyết phục bạn tôi rằng cách chó thể hiện trí thông minh cũng giống con người. Dựa vào lý thuyết về 6 loại hình thông minh của Gardner, tôi lý luận rằng chó Mi Mi của tôi có một loại hình thông minh quan trọng mà chỉ có loài linh trưởng bậc cao như con người mới có: khả năng tự nhận biết chính mình (self-awareness). Tôi nhớ lại rằng người ta đã từng làm thí nghiệm về tính tự nhận biết của tinh tinh bằng thí nghiệm với chiếc gương. Vậy là tôi tiến hành quan sát trong một tuần và thấy rằng con Mi Mi sau một tuần làm quen với chiếc gương cỡ lớn để trước mặt nó thì nó bắt đầu dùng gương để vuốt lông, liếm chân, chùi mép sau khi ăn, và tự chơi đùa với các phần cơ thể của nó mà trước đây nó không thấy được như cổ và lưng. Dần dần, con Mi bắt đầu tạo đủ dáng đứng, ngồi, nằm và quan sát sự thay đổi tương ứng của nó trong gương. Vậy có phải là con Mi thông minh hơn bình thường? Và giả thuyết ban đầu của tôi được ủng hộ?


Nguồn: Internet 
Thực ra, giả thuyết của tôi sẽ đáng tin hơn nếu con Mi vẫn tiếp tục thể hiện khả năng tự nhận thấy chính mình khi bạn tôi thiết kế ra một thí nghiệm khác để kiểm chứng. Chẳng hạn, bạn tôi cho con Mi uống thuốc ngủ liều nhẹ rồi đợi lúc nó ngủ say và tô màu nước màu đỏ lên vùng lông trước trán của con Mi. Khi con Mi thức dậy, bạn tôi dẫn nó tới trước gương và con Mi không có phản ứng gì trước thay đổi trên trán nó. Có vẻ như con Mi không nhận ra nó ở trong gương và vì vậy nó không quan tâm đến sự khác biệt mà bạn tôi vừa tạo ra trên trán nó. Như vậy, kết quả nghiên cứu của tôi không lặp lại. Vì vậy, giả thuyết không thể được ủng hộ hoặc bác bỏ hoàn toàn.
Qua ví dụ này ta thấy, phương pháp nghiên cứu có ảnh hưởng lớn và có thể quyết định kết quả tìm được. Một giả thuyết mạnh là giả thuyết có thể lặp lại khi được kiểm chứng bởi các phương pháp nghiên cứu khác nhau.

Nguyên tắc thứ ba là tính khách quan (objective). Điều này có nghĩa là nghiên cứu phải cho phép người khác lặp lại nghiên cứu một cách độc lập mà không cần có người nghiên cứu ban đầu. Khách quan hiểu nôm na là việc ai là người làm nghiên cứu ko ảnh hưởng đến kết quả. Ai cũng có thể tìm ra kết quả như nhau trên cơ sở những giả định và quy trình đã được mô tả trong báo cáo nghiên cứu. Như vậy, nhà nghiên cứu phải ghi chép lại một cách khách quan nhất có thể về các giả định, khái niệm, quy trình của nghiên cứu. Điều này có nghĩa là những yếu tố này phải được định nghĩa thật rõ ràng và thẳng thắn để tránh tất cả những diễn giải chủ quan có thể xảy ra.

Giả dụ như, tôi giả định rằng hành động con Mi nhìn chằm chằm vào gương suốt một phút liên tục là một hành vi biểu hiện khả năng tự nhận biết. Nhưng tôi vô tình quên không nói với bạn tôi về việc này. Vậy là quy trình tôi tiến hành để đo lường khả năng tự nhận biết của chó đã không còn khách quan nữa. Dù cả hai chúng tôi đều chia thời gian ra quan sát con Mi một cách khoa học và có hệ thống, kết quả vẫn sẽ phụ thuộc vào việc ai là người quan sát, vì cách đo lường của chúng tôi khác nhau. Kết quả là, tôi sẽ kết luận là chó Mi có khả năng tự nhận biết rõ rệt với bằng chứng nhiều hơn đáng kể so với kết luận của bạn tôi. Như vậy, nếu ta ko thống nhất về hành động nào được tính và ko được tính là khả năng tự nhận biết, thì ta nói rằng cách đo lường của ta không có tính khách quan.

Nguyên tắc thứ tư là tính minh bạch (transparent). Nguyên tắc này có nghĩa gần giống với tính khách quan. Trong khoa học, bất kỳ ai cũng có thể lặp lại kết quả của bạn, dù là người ủng hộ hay người phản đối. Điều này nghĩa là nhà nghiên cứu phải chia sẻ công khai cách họ đặt các giả định, các khái niệm được định nghĩa và đo lường ra sao, quy trình như thế nào, và bất kỳ thông tin gì khác có thể cần thiết cho việc lặp lại nghiên cứu.

Nguyên tắc thứ năm nói rằng một giả thuyết phải là giả thuyết có thể phản nghiệm (falsifiable), đây là một nguyên tắc rất quan trọng. Một giả thuyết có thể phản nghiệm nếu bạn có thể tưởng tượng ra ít nhất 1 trường hợp mâu thuẫn với giả thuyết của bạn, và vì vậy bác bỏ giả thuyết ấy. Nếu bạn không thể nghĩ ra một dữ kiện trái với giả thuyết bạn đề ra, thì có lẽ giả thuyết đó là ko thể bị phản biện.

Giả dụ, tôi có 1 niềm tin bất diệt rằng con Mi nhà tôi thông minh hơn so với trí tuệ thông thường của loài chó. Dù chúng tôi có quan sát thấy con Mi làm gì đi nữa, tôi cũng có thể lý giải rằng những hành động này đều thể hiện rằng con Mi là một con chó thông minh. Như vậy, tuyên bố ban đầu của tôi ko phải là một giả thuyết mang tính khoa học và nằm ngoài phạm trù của khoa học. Nó có vẻ giống với phạm trù của tôn giáo hay tín ngưỡng hơn là khoa học. Như vậy, nếu không có bằng chứng nào khả dĩ có thể phản bác một giả thuyết, thì việc tranh luận về giả thuyết ấy hoặc đi tìm lời giải bằng nghiên cứu ‘khoa học' là vô ích bởi lẽ kết luận dường như đã được khẳng định từ trước rồi.

Nguyên tắc cuối cùng của khoa học là sự nhất quán trong lô-gic suy luận (logically consistent). Một giả thuyết phải luôn nhất quán trong cách lập luận. Điều này có nghĩa là ko được có bất kỳ một sự mâu thuẫn nội tại nào từ lúc hình thành giả thuyết cho tới khi diễn giải kết quả tìm được sau khi thu được dữ kiện quan sát. Một cách nôm na, điều này có nghĩa là nhà nghiên cứu phải trước sau như một trong cái mà họ tính là bằng chứng ủng hộ hoặc bác bỏ giả thuyết.

Trong ví dụ về chó kể trên, tôi giả thuyết rằng con Mi nhà tôi thông minh hơn hẳn so với những con chó khác, và khả năng nhận ra sự thay đổi của mình qua gương của nó thể hiện điều đó. Nhưng giả sử con Mi không nhận ra trên trán nó có sự khác biệt thì sao? Tôi có thể giải thích là vì con Mi không thích vết màu trên trán nó nên nó giả bộ lờ đi, làm bộ làm tịch như là không thấy để đỡ xấu hổ. Dĩ nhiên, lập luận như vậy không có tính nhất quán. Tôi đã thay đổi cách diễn giải kết quả sau khi tôi có dữ kiện quan sát để có thể phù hợp với giả thuyết của tôi. Như vậy, điều này khiến giả thuyết của tôi là không thể bác bỏ được. Bởi lẽ, tôi sẽ luôn luôn có cách để giải thích và kết luận rằng con Mi nhà tôi rất thông minh, cho dù nó có nhận ra nó trong gương hay không.

Phương pháp khoa học cần một thái độ nghiêm túc. Nhà khoa học phải luôn giữ một tâm thái hết sức cởi mở và minh bạch. Họ chấp nhận những phản biện và sẵn sàng từ bỏ hoặc điều chỉnh giả thuyết của mình nếu có ai đó đưa ra những giải thích tốt hơn bằng một lý thuyết hoặc giả thuyết khác. Khoa học chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó vận hành giống như thuyết tiến hóa của Darwin; con người nên để cho chọn lọc tự nhiên làm công việc của nó, đó là chọn ra những giả thuyết khả dĩ nhất để tồn tại và đi tiếp cuộc hành trình của tri thức.