Một bài viết về 'Mentorship', một mối quan hệ đặc biệt và quan trọng ở bậc đại học và sau đại học.
Một series bài viết về tâm lý học phát triển với những tổng quan thú vị và giúp người đọc có cái nhìn rộng và sâu về những nghiên cứu từ đầu cho đến mới nhất về sự phát triển của con người. Xuất bản bởi NXB Wiley, trong tạp chí Wires Cognitive Science cuối năm 2016. Rất hay và đáng nghiền ngẫm sau khi đọc những quyển handbook như cuốn của Goswami (2011) về phát triển nhận thức hay Smith (2011) về phát triển cảm xúc - xã hội cũng của NXB Wiley. How We Develop — Developmental Systems and the Emergence of Complex Behaviors
Đọc về sự ra đời của Sci-Hub và chủ của nó Alexandra Elbakyan lại làm cho ta suy nghĩ về Open Access và về những vấn đề của thế giới, của chính trị, và các giá trị về công bằng và dân chủ. Cái chết của Aaron Swartz mà người ta cho rằng do chính quyền Mỹ bức tử và vụ Elsevier kiện Elbakyan làm cho ta phải suy nghĩ, liệu những người thông minh và không chịu thỏa hiệp những giá trị mà họ tin tưởng tuyệt đối với cách mà xã hội đangvận hành có còn chốn dung thân và sống yên bình với tài năng trời ban của họ? Đọc một số bài để nghĩ về phong trào Open Access và quyền tự do thông tin. Should All Research Papers Be Free? Đọc lại bài dịch của cô Phạm Thị Ly Kinh doanh ấn phẩm khoa học.
Và thêm một số bài đọc khác về mối quan hệ tưởng chừng có thể rạch ròi phân định nhưng hóa ra lại không đơn giản của khoa học và chính trị. Is Science Political?, The Virtue of Scientific Thinking, Democratic Science.
Và một số tin tức về Hồng Kông, mà báo chí quốc tế dự đoán có thể là một Thiên An Môn 2019... Những thước video làm cho ta phải nổi da gà và cầu nguyện cho Hồng Kông. Trong tuần này, người HK kỉ niệm 30 năm Baltic Way bằng cách tự lập một hàng người dài 50km dọc HK và lên tới đỉnh núi Sư Tử. Bạo chính, Bạo loạn.
Tập hợp những ghi chép trong quá trình học tập, nghiên cứu, và giảng dạy của Phạm Thị Thủy Tiên. Email: cindkie.thuytien@gmail.com
Thứ Ba, 27 tháng 8, 2019
Thứ Ba, 20 tháng 8, 2019
danh sách đọc (nghe) #34
![]() |
Photo source: Internet |
1. Khối lượng công việc của một giáo sư đại học ở các đại học lớn của phương Tây được bàn luận qua bài viết về 'nhiều đầu việc' mà họ được kỳ vọng đảm nhiệm. Đối nghịch với tải trọng và đòi hỏi công việc là mức lương 'một đầu việc' của giáo sư đại học. Being a professor is too many jobs, perhaps? Điều này phải làm ta suy nghĩ về việc các sinh viên sau đại học và nghiên cứu sinh tiến sĩ và hậu tiến sĩ, hoặc nói chung là những nhà nghiên cứu trẻ có nên tiếp tục đâm đầu vào những trường đại học danh tiếng hay không? Khi kỳ vọng về 'lượng' quá cao thì 'phẩm' làm sao đạt được? Có lẽ chăng, chúng ta nên thông thái hơn trong việc 'chọn nơi gửi mình'? Đọc thêm bài The tradeoff between productivity and risk-taking và suy nghĩ về vấn đề 'phẩm' và 'lượng'.
2. Một bước tiến rất đáng ngưỡng mộ của tạp chí Nature trong việc minh bạch hóa và tôn trọng kết quả nghiên cứu. Nature Human Behavior số mới ra có đăng một trong những bài báo 'registered report' đầu tiên của He & Cote, Self-insight into emotional and cognitive abilities is not related to higher adjustment, một bằng chứng trái chiều về vai trò của khả năng tự nhận biết bản thân trong tâm lý và tư duy. Quy trình của một registered report bắt đầu bằng việc gửi proposal đăng ký trước các bước tiến hành và giả thuyết nghiên cứu. Khi đã được duyệt thì kết quả nghiên cứu dù là không ủng hộ giả thuyết ban đầu cũng sẽ được công bố. Dĩ nhiên với yêu cầu là các bước thiết kế, thu thập và phân tích số liệu phải được thực thực hiện hết sức chặt chẽ (robust) và được công khai trên tạp chí. Bài báo này là một ca cần lưu lại để học hỏi. Các tài liệu về coding trên R được tác giả cung cấp hết sức khoa học và rõ ràng, rất tiện để mình học.
3. Tập mới nhất của Last Week Tonight, John Oliver đụng chạm đến vấn đề muôn thuở: Thiên kiến giới trong y khoa. Bias In Medicine: Last Week Tonight with John Oliver (HBO).
4. Bài báo của Roy et al. (2006) mình đã nghe trên podcast của The Guardian rất lâu rồi nhưng giờ mới có dịp đọc bài gốc. The Human Speechome Project. Dự án rất thú vị, giống như sự kết hợp của Piaget, machine learning, computational modelling, và các công nghệ nghe nhìn tân tiến nhất.
5. Bài viết trên The Conversation Global về tình hình của Hồng Công. Một số lối viết câu và từ vựng hay, có thể lưu lại để học và dùng. (v.d. Beijing has a long-term Hong Kong challenge on its hands, one that in many ways is of its own making.) Beijing is moving to stamp out the Hong Kong protests – but it may have already lost the city for good.
6. Bài viết về Elizaberth Warren. Mô tả tiểu sử và triết lý giảng dạy của Warren. Elizabeth Warren’s Classroom Strategy A lifelong teacher, she’s the most professorial presidential candidate ever. But does America want to be taught?
6. Bài viết về Elizaberth Warren. Mô tả tiểu sử và triết lý giảng dạy của Warren. Elizabeth Warren’s Classroom Strategy A lifelong teacher, she’s the most professorial presidential candidate ever. But does America want to be taught?
Thứ Ba, 11 tháng 6, 2019
Phân biệt đối xử giới là gì?
Bài viết bên dưới bàn và chia sẻ một phần kết quả nghiên cứu mà tôi đã làm về phân biệt đối xử giới ở Việt Nam trong năm 2018.
Mời bạn xem bản preprint của bài báo cáo full bằng tiếng Anh ở đây.
Link bài full tiếng Việt ở đây.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Tương đồng với kết quả từ các quốc gia khác như Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Chile, Hà Lan, Pháp, Anh, Nhật, Nam Phi, v.v…, người Việt Nam cho thấy họ có thái độ phân biệt đối xử theo giới (sexism/ sex discrimination), thể hiện qua hai khía cạnh là ác cảm và thiện cảm. Mức độ phân biệt đối xử này có liên quan với mức độ hài lòng trong công việc và sức khỏe tinh thần của người Việt Nam. Để đi đến kết luận trên, nhóm nghiên cứu của Bộ môn Tâm lý học thuộc Đại Học Hoa Sen đã kiểm tra dữ liệu của 542 người đi làm trên khắp Việt Nam bằng cách mời họ điền vào bảng khảo sát trực tuyến gồm các thang đo đã chuẩn hóa và được dịch sang tiếng Việt về thái độ giới, sự hài lòng trong công việc, và mức độ stress.
-----
PHẦN 1: PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ THEO GIỚI LÀ GÌ?
Nếu không có tác động nào bởi con người, thì xác suất một em bé ra đời là trai hoặc gái là 1/2. Và nếu giả định tỉ lệ sinh bằng tỉ lệ tử ở hai giới, thì ở bất kỳ thời điểm nào, 50% dân số thế giới là phụ nữ.
Trong khi đó:
Trong số 45 tổng thống Mỹ kể từ George Washington nhậm chức tổng thống đầu tiên vào năm 1789 cho đến thời Donald Trump đương nhiệm từ 2017 đến nay, không có một nữ tổng thống nào. Tỉ lệ là 0%.
Trong số các lãnh đạo của 500 công ty thuộc Fortune 500 list năm 2018, chỉ có 24 là phụ nữ. Tỉ lệ là 4.8%.
Trong số các thành viên nội các (ủy viên quốc hội) của các quốc gia trên thế giới, chỉ có 24% là phụ nữ. Ở Việt Nam, tỉ lệ này nhỉnh hơn trung bình thế giới một chút, vào khoảng 26%.
Ở một số quốc gia như Nhật, Hàn, Mỹ, tỉ lệ nữ bác sĩ là dưới 40%. Ở Nhật, tỉ lệ này là 20.3% (số liệu năm 2015, OECD).
Bạn chỉ cần gõ tìm ‘rate of female x around the world’ là sẽ tìm được các con số thống kê tương tự. Với x là những nghề như: bác sĩ, kỹ sư, nhà lãnh đạo chính trị, lãnh đạo công ty, nhà toán học, nhà vật lý học…
Những tỉ lệ kể trên có sự chênh lệch rất lớn so với tỉ lệ giới trong dân số. Có những tỉ lệ quá thấp và mặc dù tích lũy trong nhiều năm vẫn rất thấp (trường hợp tổng thống Mỹ) để có thể tin là hoàn toàn do ngẫu nhiên.
Theo thống kê ở Mỹ trong 10 năm vừa qua (2009 - 2018), tỉ lệ thu nhập của nữ so với nam dao động từ 80.3% - 82.5% (công việc tương đương, các yếu tố khác có liên quan như tuổi tác và trình độ là như nhau). Điều này có nghĩa là, cứ mỗi 1 đô la đàn ông kiếm được, thì phụ nữ được trả 80 xu.
Phụ nữ thường làm hầu hết hoặc phần lớn công việc nhà mang tính thường nhật, mặc dù họ vẫn đi làm mỗi ngày với thời gian y như đàn ông. Trong một báo cáo của ILO - Gallup năm 2017, 44% đàn ông Việt Nam và 38% đàn ông nói chung nói rằng họ muốn người phụ nữ trong gia đình mình có thể vừa có công việc làm được trả lương và vừa ở nhà chăm sóc gia đình (2).
Những con số trên đây là bằng chứng của một vấn đề xã hội lớn mang tên: bất bình đẳng giới (gender inequality). Tất nhiên, những chỉ số về bất bình đẳng giới còn bao hàm rất nhiều yếu tố khác nữa như cơ hội giáo dục cho trẻ em gái, đa dạng ngành nghề, cơ hội thăng tiến cho phái nữ, v.v… Việt Nam đứng thứ 69 trong tổng số gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ về chỉ số bất bình đẳng giới theo báo cáo của UNDP năm 2017.
Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào khái niệm phân biệt đối xử giới (PBĐX) vì hai lý do chính. Một mặt, các nghiên cứu về giới đã làm ở Việt Nam thường tập trung vào các chỉ số của bất bình đẳng giới thay vì tìm hiểu nhận thức về giới của mỗi cá nhân. Mặt khác, nghiên cứu đã chỉ ra rằng thái độ về vai trò giới của mỗi thành viên trong một xã hội có thể tạo ra bất bình đẳng trong xã hội đó (3,4). PBĐX giới bao gồm các tư duy khuôn mẫu giới, định kiến giới, và những thái độ, kỳ vọng hay cách đối đãi với một người theo những cách khác nhau tùy vào giới tính của họ. ‘Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm’, làm trai cho đáng nên trai’, hay ‘đàn bà học cao khó lấy chồng’ là những quan niệm có tính phân biệt đối xử giới bởi vì nó đóng khung cho phụ nữ và đàn ông những vai trò khác nhau. Ở các thế kỷ trước, một số quan niệm Khổng Tử, Nho giáo của Trung Quốc như ‘tam tòng tứ đức’, ‘trai anh hùng, gái thuyền quyên’ có du nhập vào dân gian bằng con đường văn hóa, giáo dục, đặc biệt ảnh hưởng đến những gia đình có học thức. Đại đa số quần chúng thuần nông ít học hơn khá bình đẳng, tự do yêu đương, thành thân với người mình yêu, sau khi kết hôn cả hai cùng ‘bình đẳng’ và chia sẻ trách nhiệm gia đình với nhau (5). Vào thời kỳ công nghiệp hóa những năm 1960, phụ nữ Mỹ bị bó hẹp trong khuôn bếp - tháp ngà 'mơ ước' của phụ nữ trẻ. Mục tiêu quan trọng nhất của người phụ nữ đến tuổi trưởng thành là có một người đàn ông đủ điều kiện kinh tế kết hôn với mình. Khi họ có cảm giác không ổn mà không thể nêu rành rọt lý do tại sao, bác sĩ liền chẩn đoán rằng họ mắc chứng tâm thần (mental illness) vì chỉ có điên mới không hài lòng với đời sống được cung phụng đầy đủ như hiện có - và quan trọng hơn đó là mô hình kiểu mẫu của xã hội, là mục tiêu cuộc đời của mọi phụ nữ (6). Xã hội công nghiệp vận hành suôn sẻ khi phụ nữ ở nhà lo nhà cửa, con cái, để những người đàn ông toàn tâm toàn ý đi làm công nhân ở xưởng. Việt Nam lại có truyền thống kêu gọi phụ nữ tham gia lao động sản xuất, tham gia chiến đấu trong quá khứ. Ngày nay, ở những gia đình bình dân và trung lưu, phụ nữ Việt Nam vẫn đi làm để chia sẻ gánh vác tài chính, vì thời buổi kinh tế có bao giờ thôi khó khăn! Nhưng với điều kiện cô ta vẫn phải đảm bảo tề gia nội trợ. Bởi vì cô ấy mà không làm, thì ai vào đây? Đi làm về, vợ nấu nướng, chồng ngồi đọc báo, xem ti vi chờ cơm, ăn xong vợ rửa chén dọn dẹp, chồng lại đọc báo, xem ti vi (hoặc giờ là ôm máy vi tính) là chuyện thường tình ở huyện. Chỗ của đàn ông không phải là cái bếp. Anh ta nếu phải làm việc nhà thì chỉ là những việc lớn thảng hoặc như sửa ống nước hay quét lại cái tường nhà. Con cái cứ nhìn vào bố mẹ, y như thế mà sống nếp cũ khi có gia đình riêng. Vòng lặp của vai trò giới cứ thế tiếp diễn mà chẳng ai buồn bận tâm, vì cuộc sống đã quẳng cho đủ các mối lo rồi, ai rỗi hơi đào sới lên cho mất đoàn kết, lủng củng nội bộ.
Hiện nay, giới nghiên cứu về định kiến nhất quán với lý thuyết rằng PBĐX giới tồn tại ở hai dạng: ác cảm và thiện cảm (7). PBĐX ác cảm là thái độ đánh giá thấp năng lực và phẩm chất của phụ nữ và vì vậy cư xử có tính áp đặt trong mối quan hệ với những người phụ nữ xung quanh và cho rằng phụ nữ đòi hỏi quyền lợi hoặc công bằng là những người có tính thù địch và muốn tranh đua ngôi vị thống trị của nam giới. Quấy rối và tấn công tình dục là một biểu hiện của PBĐX ác cảm với phụ nữ, rằng phụ nữ là vật thể nhục tính (sex object) chứ không phải một cá thể có những giá trị ngang hàng với nam giới. Thái độ thù địch, ác cảm với các nhà nữ quyền hoặc những người phụ nữ thành công trong sự nghiệp hoặc thóa mạ, dè bỉu nữ lãnh đạo một cách tục tĩu, thô lỗ cũng là biểu hiện của thái độ PBĐX giới ác cảm.
PBĐX thiện cảm là thái độ cho rằng phụ nữ sở hữu những phẩm chất và khả năng mà nam giới không có như nhạy cảm hơn, có gu thẩm mĩ hơn, và có tính thuần khiết, ấm áp. Họ cho rằng phụ nữ cần được đàn ông chăm lo, bảo vệ, và gánh vác trách nhiệm tài chính. Đổi lại, phụ nữ đóng vai trò bổ trợ, hoàn thiện đàn ông. Đàn ông cần có phụ nữ yêu thương và chăm lo đời sống tình cảm, quán xuyến gia đình để họ yên tâm ‘trở thành chính mình’ - người đàn ông sắm vai trụ cột gia đình và là thành viên tích cực trong xã hội. Nhìn chung, PBĐX thiện cảm thoạt nhìn thì dường như có ý tốt từ phía chủ thể phân biệt, nhưng thực sự thì nó cũng ngụ ý rằng phụ nữ thua kém đàn ông ở những phẩm chất cần thiết để làm chủ xã hội. Không chỉ nam giới mà phụ nữ cũng có thái độ phân biệt đối xử giới thiện cảm. Họ có thể lên án và nhận ra sự sai trái của việc quấy rối tình dục hoặc thóa mạ phụ nữ ngay lập tức. Nhưng họ chấp nhận một cách hiển nhiên việc mình phải đảm đương hầu hết việc nhà và phần lớn việc chăm sóc, dạy dỗ con cái. Đổi lại, họ có một mái ấm gia đình và một người chồng chí thú làm ăn, có trách nhiệm với vợ con, không có tật xấu gì đáng kể.
Những quan niệm phân biệt đối xử, dù là ác cảm hay thiện cảm, đều có tác hại đối với cả người bị phân biệt và người phân biệt. Dù là ở góc độ cá nhân, tổ chức, hay xã hội thì các dạng phân biệt đối xử theo giới đều có những tác động tiêu cực.
PHẦN 2: PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ GIỚI THÌ CÓ LIÊN QUAN GÌ ĐẾN TÔI?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1). Phạm T. T. Tiên, Nguyễn H. Ân, Nguyễn T. Loan, Phan T.H.D Thy, Lê M. Thuận (2018). Mối quan hệ giữa phân biệt đối xử theo giới với sự hài lòng trong công việc và sức khỏe tinh thần của người lao động Việt Nam. Dự án nghiên cứu được tài trợ bởi Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và Bộ Lao Động Thương Binh & Xã Hội trong khuôn khổ cuộc thi Nghiên cứu Lao động 2018 (preprint)
(2). ILO-Gallup (2017). Towards a better future for women and work: Voices of women and men. (pdf)
(3). Brandt, M. J. (2011) ‘Sexism and gender inequality across 57 societies’, Psychological Science, 22(11), pp. 1413–1418. doi: 10.1177/0956797611420445.
(4). Glick, P., Fiske, S.T., (2000), “An ambivalent alliance: Hostile and benevolent sexim as complementary justifications for gender inequality”, American Psychologist, Vol 56, No.2, 109 – 118. American Psychological Association, US.
(5). Thông tin từ Th.S Đỗ Hồng Quân – nhà nghiên cứu và giảng viên môn Giới và phát triển, chia sẻ về Luận văn tiến sĩ của một nghiên cứu sinh người Hàn về Vị thế của phụ nữ Việt Nam qua bộ Lê triều hình luật, tại hội thảo Gender Talk ngày 14/3 tại trường Đại Học Hoa Sen.
(6). Friedan, Betty. (1963). Bí ẩn nữ tính. Nguyễn Vân Hà dịch.TP. HCM. NXB: Hồng Đức
(7). Glick, P. & Fiske, S. T. (1996) ‘The Ambivalent Sexism lnventory: Differentiating hostile and benevolen sexism’, Journal of Personality and Social Psychology, 70(3), pp. 491–512.
Mời bạn xem bản preprint của bài báo cáo full bằng tiếng Anh ở đây.
Link bài full tiếng Việt ở đây.
-----
PHẦN 1: PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ THEO GIỚI LÀ GÌ?
Nếu không có tác động nào bởi con người, thì xác suất một em bé ra đời là trai hoặc gái là 1/2. Và nếu giả định tỉ lệ sinh bằng tỉ lệ tử ở hai giới, thì ở bất kỳ thời điểm nào, 50% dân số thế giới là phụ nữ.
Trong khi đó:
Trong số 45 tổng thống Mỹ kể từ George Washington nhậm chức tổng thống đầu tiên vào năm 1789 cho đến thời Donald Trump đương nhiệm từ 2017 đến nay, không có một nữ tổng thống nào. Tỉ lệ là 0%.
Trong số các lãnh đạo của 500 công ty thuộc Fortune 500 list năm 2018, chỉ có 24 là phụ nữ. Tỉ lệ là 4.8%.
Trong số các thành viên nội các (ủy viên quốc hội) của các quốc gia trên thế giới, chỉ có 24% là phụ nữ. Ở Việt Nam, tỉ lệ này nhỉnh hơn trung bình thế giới một chút, vào khoảng 26%.
Ở một số quốc gia như Nhật, Hàn, Mỹ, tỉ lệ nữ bác sĩ là dưới 40%. Ở Nhật, tỉ lệ này là 20.3% (số liệu năm 2015, OECD).
Bạn chỉ cần gõ tìm ‘rate of female x around the world’ là sẽ tìm được các con số thống kê tương tự. Với x là những nghề như: bác sĩ, kỹ sư, nhà lãnh đạo chính trị, lãnh đạo công ty, nhà toán học, nhà vật lý học…
Những tỉ lệ kể trên có sự chênh lệch rất lớn so với tỉ lệ giới trong dân số. Có những tỉ lệ quá thấp và mặc dù tích lũy trong nhiều năm vẫn rất thấp (trường hợp tổng thống Mỹ) để có thể tin là hoàn toàn do ngẫu nhiên.
Theo thống kê ở Mỹ trong 10 năm vừa qua (2009 - 2018), tỉ lệ thu nhập của nữ so với nam dao động từ 80.3% - 82.5% (công việc tương đương, các yếu tố khác có liên quan như tuổi tác và trình độ là như nhau). Điều này có nghĩa là, cứ mỗi 1 đô la đàn ông kiếm được, thì phụ nữ được trả 80 xu.
Phụ nữ thường làm hầu hết hoặc phần lớn công việc nhà mang tính thường nhật, mặc dù họ vẫn đi làm mỗi ngày với thời gian y như đàn ông. Trong một báo cáo của ILO - Gallup năm 2017, 44% đàn ông Việt Nam và 38% đàn ông nói chung nói rằng họ muốn người phụ nữ trong gia đình mình có thể vừa có công việc làm được trả lương và vừa ở nhà chăm sóc gia đình (2).
Những con số trên đây là bằng chứng của một vấn đề xã hội lớn mang tên: bất bình đẳng giới (gender inequality). Tất nhiên, những chỉ số về bất bình đẳng giới còn bao hàm rất nhiều yếu tố khác nữa như cơ hội giáo dục cho trẻ em gái, đa dạng ngành nghề, cơ hội thăng tiến cho phái nữ, v.v… Việt Nam đứng thứ 69 trong tổng số gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ về chỉ số bất bình đẳng giới theo báo cáo của UNDP năm 2017.
Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào khái niệm phân biệt đối xử giới (PBĐX) vì hai lý do chính. Một mặt, các nghiên cứu về giới đã làm ở Việt Nam thường tập trung vào các chỉ số của bất bình đẳng giới thay vì tìm hiểu nhận thức về giới của mỗi cá nhân. Mặt khác, nghiên cứu đã chỉ ra rằng thái độ về vai trò giới của mỗi thành viên trong một xã hội có thể tạo ra bất bình đẳng trong xã hội đó (3,4). PBĐX giới bao gồm các tư duy khuôn mẫu giới, định kiến giới, và những thái độ, kỳ vọng hay cách đối đãi với một người theo những cách khác nhau tùy vào giới tính của họ. ‘Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm’, làm trai cho đáng nên trai’, hay ‘đàn bà học cao khó lấy chồng’ là những quan niệm có tính phân biệt đối xử giới bởi vì nó đóng khung cho phụ nữ và đàn ông những vai trò khác nhau. Ở các thế kỷ trước, một số quan niệm Khổng Tử, Nho giáo của Trung Quốc như ‘tam tòng tứ đức’, ‘trai anh hùng, gái thuyền quyên’ có du nhập vào dân gian bằng con đường văn hóa, giáo dục, đặc biệt ảnh hưởng đến những gia đình có học thức. Đại đa số quần chúng thuần nông ít học hơn khá bình đẳng, tự do yêu đương, thành thân với người mình yêu, sau khi kết hôn cả hai cùng ‘bình đẳng’ và chia sẻ trách nhiệm gia đình với nhau (5). Vào thời kỳ công nghiệp hóa những năm 1960, phụ nữ Mỹ bị bó hẹp trong khuôn bếp - tháp ngà 'mơ ước' của phụ nữ trẻ. Mục tiêu quan trọng nhất của người phụ nữ đến tuổi trưởng thành là có một người đàn ông đủ điều kiện kinh tế kết hôn với mình. Khi họ có cảm giác không ổn mà không thể nêu rành rọt lý do tại sao, bác sĩ liền chẩn đoán rằng họ mắc chứng tâm thần (mental illness) vì chỉ có điên mới không hài lòng với đời sống được cung phụng đầy đủ như hiện có - và quan trọng hơn đó là mô hình kiểu mẫu của xã hội, là mục tiêu cuộc đời của mọi phụ nữ (6). Xã hội công nghiệp vận hành suôn sẻ khi phụ nữ ở nhà lo nhà cửa, con cái, để những người đàn ông toàn tâm toàn ý đi làm công nhân ở xưởng. Việt Nam lại có truyền thống kêu gọi phụ nữ tham gia lao động sản xuất, tham gia chiến đấu trong quá khứ. Ngày nay, ở những gia đình bình dân và trung lưu, phụ nữ Việt Nam vẫn đi làm để chia sẻ gánh vác tài chính, vì thời buổi kinh tế có bao giờ thôi khó khăn! Nhưng với điều kiện cô ta vẫn phải đảm bảo tề gia nội trợ. Bởi vì cô ấy mà không làm, thì ai vào đây? Đi làm về, vợ nấu nướng, chồng ngồi đọc báo, xem ti vi chờ cơm, ăn xong vợ rửa chén dọn dẹp, chồng lại đọc báo, xem ti vi (hoặc giờ là ôm máy vi tính) là chuyện thường tình ở huyện. Chỗ của đàn ông không phải là cái bếp. Anh ta nếu phải làm việc nhà thì chỉ là những việc lớn thảng hoặc như sửa ống nước hay quét lại cái tường nhà. Con cái cứ nhìn vào bố mẹ, y như thế mà sống nếp cũ khi có gia đình riêng. Vòng lặp của vai trò giới cứ thế tiếp diễn mà chẳng ai buồn bận tâm, vì cuộc sống đã quẳng cho đủ các mối lo rồi, ai rỗi hơi đào sới lên cho mất đoàn kết, lủng củng nội bộ.
Hiện nay, giới nghiên cứu về định kiến nhất quán với lý thuyết rằng PBĐX giới tồn tại ở hai dạng: ác cảm và thiện cảm (7). PBĐX ác cảm là thái độ đánh giá thấp năng lực và phẩm chất của phụ nữ và vì vậy cư xử có tính áp đặt trong mối quan hệ với những người phụ nữ xung quanh và cho rằng phụ nữ đòi hỏi quyền lợi hoặc công bằng là những người có tính thù địch và muốn tranh đua ngôi vị thống trị của nam giới. Quấy rối và tấn công tình dục là một biểu hiện của PBĐX ác cảm với phụ nữ, rằng phụ nữ là vật thể nhục tính (sex object) chứ không phải một cá thể có những giá trị ngang hàng với nam giới. Thái độ thù địch, ác cảm với các nhà nữ quyền hoặc những người phụ nữ thành công trong sự nghiệp hoặc thóa mạ, dè bỉu nữ lãnh đạo một cách tục tĩu, thô lỗ cũng là biểu hiện của thái độ PBĐX giới ác cảm.
PBĐX thiện cảm là thái độ cho rằng phụ nữ sở hữu những phẩm chất và khả năng mà nam giới không có như nhạy cảm hơn, có gu thẩm mĩ hơn, và có tính thuần khiết, ấm áp. Họ cho rằng phụ nữ cần được đàn ông chăm lo, bảo vệ, và gánh vác trách nhiệm tài chính. Đổi lại, phụ nữ đóng vai trò bổ trợ, hoàn thiện đàn ông. Đàn ông cần có phụ nữ yêu thương và chăm lo đời sống tình cảm, quán xuyến gia đình để họ yên tâm ‘trở thành chính mình’ - người đàn ông sắm vai trụ cột gia đình và là thành viên tích cực trong xã hội. Nhìn chung, PBĐX thiện cảm thoạt nhìn thì dường như có ý tốt từ phía chủ thể phân biệt, nhưng thực sự thì nó cũng ngụ ý rằng phụ nữ thua kém đàn ông ở những phẩm chất cần thiết để làm chủ xã hội. Không chỉ nam giới mà phụ nữ cũng có thái độ phân biệt đối xử giới thiện cảm. Họ có thể lên án và nhận ra sự sai trái của việc quấy rối tình dục hoặc thóa mạ phụ nữ ngay lập tức. Nhưng họ chấp nhận một cách hiển nhiên việc mình phải đảm đương hầu hết việc nhà và phần lớn việc chăm sóc, dạy dỗ con cái. Đổi lại, họ có một mái ấm gia đình và một người chồng chí thú làm ăn, có trách nhiệm với vợ con, không có tật xấu gì đáng kể.
Những quan niệm phân biệt đối xử, dù là ác cảm hay thiện cảm, đều có tác hại đối với cả người bị phân biệt và người phân biệt. Dù là ở góc độ cá nhân, tổ chức, hay xã hội thì các dạng phân biệt đối xử theo giới đều có những tác động tiêu cực.
PHẦN 2: PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ GIỚI THÌ CÓ LIÊN QUAN GÌ ĐẾN TÔI?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1). Phạm T. T. Tiên, Nguyễn H. Ân, Nguyễn T. Loan, Phan T.H.D Thy, Lê M. Thuận (2018). Mối quan hệ giữa phân biệt đối xử theo giới với sự hài lòng trong công việc và sức khỏe tinh thần của người lao động Việt Nam. Dự án nghiên cứu được tài trợ bởi Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và Bộ Lao Động Thương Binh & Xã Hội trong khuôn khổ cuộc thi Nghiên cứu Lao động 2018 (preprint)
(2). ILO-Gallup (2017). Towards a better future for women and work: Voices of women and men. (pdf)
(3). Brandt, M. J. (2011) ‘Sexism and gender inequality across 57 societies’, Psychological Science, 22(11), pp. 1413–1418. doi: 10.1177/0956797611420445.
(4). Glick, P., Fiske, S.T., (2000), “An ambivalent alliance: Hostile and benevolent sexim as complementary justifications for gender inequality”, American Psychologist, Vol 56, No.2, 109 – 118. American Psychological Association, US.
(5). Thông tin từ Th.S Đỗ Hồng Quân – nhà nghiên cứu và giảng viên môn Giới và phát triển, chia sẻ về Luận văn tiến sĩ của một nghiên cứu sinh người Hàn về Vị thế của phụ nữ Việt Nam qua bộ Lê triều hình luật, tại hội thảo Gender Talk ngày 14/3 tại trường Đại Học Hoa Sen.
(6). Friedan, Betty. (1963). Bí ẩn nữ tính. Nguyễn Vân Hà dịch.TP. HCM. NXB: Hồng Đức
(7). Glick, P. & Fiske, S. T. (1996) ‘The Ambivalent Sexism lnventory: Differentiating hostile and benevolen sexism’, Journal of Personality and Social Psychology, 70(3), pp. 491–512.
Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2019
Liệu chúng ta có thể trở thành những người lãnh đạo không?*
Tôi rất vinh dự và vui sướng được đứng ở đây hôm nay cùng các bạn. Trong số các bạn, có những người đang là hoặc sẽ là lãnh đạo tại cơ quan mà bạn làm việc, của một cộng đồng yếu thế mà bạn đứng ra bảo vệ quyền lợi, hoặc là của đất nước mà bạn gọi là ‘nhà’. Tôi ước gì ông bà nội của tôi có thể nhìn thấy tôi ở đây hôm nay cùng các bạn. Họ đã dõi bước chân tôi những năm tôi lăn xả vào cuộc đời sinh viên, rồi sau đó là nhưng năm va vấp, vất vả tìm kiếm con đường nghề nghiệp và bản sắc chuyên môn của mình. Tôi hy vọng câu chuyện của mình sẽ góp phần làm cho các bạn thêm tin tưởng rằng nếu chúng ta thực tâm mong muốn và làm việc chăm chỉ với tâm hồn trong sáng rộng mở, chúng ta sẽ tự mở ra cho mình rất nhiều cơ hội và khả năng giành lấy cho mình một cuộc đời hạnh phúc và có ích. Đối với những bạn đến đây với mục tiêu rất cụ thể là học hỏi về việc làm sao để lãnh đạo trong khi mà chúng ta không giữ một chức vụ trưởng hoặc phó nào đó trong cơ quan mình đang làm việc, tôi hy vọng bạn tìm thấy cho mình ý nghĩa thực sự đằng sau cụm từ ‘lãnh đạo’ hoa mĩ và có vẻ đáng sợ kia. Với tư cách là một người nghiên cứu về não bộ và hành vi của con người, tôi muốn nhấn mạnh với các bạn một điều rằng chúng ta sinh ra với những tiềm năng vô hạn, nhưng chúng ta lớn lên và đánh mất rất nhiều qua quá trình thích nghi và tiếp thu đời sống xã hội với nhiều rào cản vô hình. Và tôi không có chút nghi ngờ nào mà phải nói rằng, nếu chúng ta có thể tận dụng những gì chúng ta được tự nhiên ban cho, mỗi người trong chúng ta luôn có thể trở thành nhiều hơn những gì chúng ta đang thể hiện.
Để nói về đất nước quê hương của mình một cách hoàn toàn khách quan là điều thật khó. Việt Nam là nơi mà tôi sẽ luôn có những cảm xúc trìu mến nhất mỗi khi nhắc đến. Còn nước Anh lại là nguồn cảm hứng và là một phần bản sắc chuyên môn của tôi. Được gặp gỡ, có một năm gắn bó và rồi yêu mến nước Anh là một điều vô cùng may mắn đối với tôi. Quê hương thứ hai này có những nhà khoa học tận tụy và thầm lặng, có ngôi trường và người thầy đã dạy cho tôi biết thế nào là một người lãnh đạo học thuật chân chính. Các thầy cô của tôi, họ làm việc chăm chỉ và nghiêm túc. Họ làm cho mỗi bài giảng trở thành một trải nghiệm quý giá với một sinh viên bỡ ngỡ bước chân vào giới học thuật mà như Alice trong xứ sở thần tiên. Những bài giảng của họ không quyển sách giáo khoa nào có thể sánh ngang. Trên tất cả, những bài tập mà họ giao và các phản hồi thấu đáo mà họ gửi lại cho tôi là điều đặc biệt nhất của trải nghiệm đi học đại học sau nhiều năm tôi miệt mài tự học và phải tự làm giáo viên cho chính mình. Khi làm nghiên cứu, bằng thái độ kiên nhẫn, ủng hộ và cũng rất cẩn trọng trong việc đưa ra những chỉ dẫn, thầy tôi trao trách nhiệm học tập cho tôi và chính ông cũng giữ lấy trách nhiệm ấy cho mình.
Mối quan hệ với thầy hướng dẫn cũng là kim chỉ nan dẫn đường cho tôi trong con đường phát triển nghề nghiệp mới vừa chớm nở. Hiện nay, công việc của tôi ở trường đại học là giảng dạy và nghiên cứu. Tôi làm việc một tuần hơn 50 tiếng. Một mặt, tôi nghiên cứu và học tập về các lĩnh vực mà mình quan tâm. Tôi thiết lập mối quan hệ chuyên môn, cộng tác, và học hỏi từ các thầy cô, các đồng nghiệp trong và ngoài trường đại học mà tôi công tác. Những trải nghiệm này rèn luyện cho tôi tính khiêm nhường và nền tảng đạo đức trong nghiên cứu, vốn không phải là điều mà một sớm một chiều có thể cảm thụ và thực hành hết được. Trong học thuật hay bất kỳ lĩnh vực nào hiện nay, người lãnh đạo hoặc trưởng nhóm không nhất thiết là quản lý hay cấp trên của bạn. Tính chuyên môn hóa và tầm quan trọng của các dự án liên ngành hoặc đòi hỏi nhiều chuyên môn sâu tạo điều kiện cho mỗi người có thể thuyết phục người khác cùng đồng hành với mình trong một điều gì đó mà mình khởi xướng. Bạn có thể là sinh viên và có thể là nhà nghiên cứu trẻ mà vẫn có thể là người khởi xướng trong công việc của mình. Để tạo ra sự thay đổi, chúng ta cần thái độ và tinh thần trách nhiệm với sự thay đổi đó chứ không cần một vị trí.
Mặt khác, ở trên lớp, tôi làm việc chăm chỉ để nhóm ngọn lửa đam mê đối với ngành tâm lý học vào trong lòng các sinh viên của mình. Tôi cố gắng cấu trúc kiến thức một cách hệ thống đủ để sinh viên có được bức tranh lớn và tầm nhìn rộng mở về môn học và về những gì họ có thể làm được với những kiến thức đó. Tôi cũng cho sinh viên thấy rằng tôi kỳ vọng cao ở họ và sẵn lòng trợ giúp hết mình để sinh viên có thể vượt qua nỗi sợ và hiện thực hóa những khả năng của họ. Những cuộc thảo luận trong lớp, việc chia sẻ tài nguyên và kế hoạch học tập trước mỗi giờ lên lớp là một phần trong kế hoạch giảng dạy lấy sinh viên làm trung tâm và trao trách nhiệm cho người học của tôi. Với những mảng chuyên môn mà tôi không nghiên cứu sâu, nếu trong vòng quen biết của mình có ai đó có chuyên môn hơn, tôi tìm cách mời họ về chia sẻ cho sinh viên của tôi trong buổi học về chủ đề đó thay vì cố gắng đọc sách và tỏ ra mình thông thái trong mọi vấn đề. Điều đó đơn giản là không thể, ngay cả với những giáo sư lâu năm, huống hồ gì là tôi, một người vừa vỏn vẹn một năm kinh nghiệm làm nghề giảng dạy. Tôi không chắc là tất cả sinh viên đều yêu thích và cảm thấy thoải mái với những yêu cầu cao của tôi. Nhưng tôi có thể chắc rằng với những ai thực tâm mong muốn mở mang trí óc để tạo ra sự thay đổi nơi chính mình và những người xung quanh, thì tôi cũng không đến nỗi làm cho họ thất vọng.
Tóm lại, nếu định nghĩa lãnh đạo là tạo ra sự thay đổi thì mỗi người trong chúng ta đều có thể làm được nếu chúng ta thực tâm mong muốn. Chúng ta không cần phải đợi một vị trí hoặc chức danh. Hãy đầu tư vào bản thân, sống đúng với những niềm tin và con người của mình, làm việc chăm chỉ, thú nhận những trăn trở, những nỗi sợ hãi và niềm vui sướng trong lòng mình, và cuối cùng, hãy tin tưởng vào chính mình cũng như những người bạn đồng hành của chúng ta. Đó là khi chúng ta tạo ra sự thay đổi và trở thành nhà lãnh đạo không cần chức danh.
* Bài nói chuyện của ThS. Phạm Thị Thủy Tiên, Giảng viên bộ môn Tâm lý học – Khoa Khoa Học Xã Hội trường Đại Học Hoa Sen trong Chương trình Chevening Youth Talk – Lãnh đạo không chức danh do Đại Sứ Quán Anh ở Việt Nam tổ chức sáng ngày 12-1-2019 tại iTechBlack - Coworking Incubator, TP. HCM.
Để nói về đất nước quê hương của mình một cách hoàn toàn khách quan là điều thật khó. Việt Nam là nơi mà tôi sẽ luôn có những cảm xúc trìu mến nhất mỗi khi nhắc đến. Còn nước Anh lại là nguồn cảm hứng và là một phần bản sắc chuyên môn của tôi. Được gặp gỡ, có một năm gắn bó và rồi yêu mến nước Anh là một điều vô cùng may mắn đối với tôi. Quê hương thứ hai này có những nhà khoa học tận tụy và thầm lặng, có ngôi trường và người thầy đã dạy cho tôi biết thế nào là một người lãnh đạo học thuật chân chính. Các thầy cô của tôi, họ làm việc chăm chỉ và nghiêm túc. Họ làm cho mỗi bài giảng trở thành một trải nghiệm quý giá với một sinh viên bỡ ngỡ bước chân vào giới học thuật mà như Alice trong xứ sở thần tiên. Những bài giảng của họ không quyển sách giáo khoa nào có thể sánh ngang. Trên tất cả, những bài tập mà họ giao và các phản hồi thấu đáo mà họ gửi lại cho tôi là điều đặc biệt nhất của trải nghiệm đi học đại học sau nhiều năm tôi miệt mài tự học và phải tự làm giáo viên cho chính mình. Khi làm nghiên cứu, bằng thái độ kiên nhẫn, ủng hộ và cũng rất cẩn trọng trong việc đưa ra những chỉ dẫn, thầy tôi trao trách nhiệm học tập cho tôi và chính ông cũng giữ lấy trách nhiệm ấy cho mình.
Mối quan hệ với thầy hướng dẫn cũng là kim chỉ nan dẫn đường cho tôi trong con đường phát triển nghề nghiệp mới vừa chớm nở. Hiện nay, công việc của tôi ở trường đại học là giảng dạy và nghiên cứu. Tôi làm việc một tuần hơn 50 tiếng. Một mặt, tôi nghiên cứu và học tập về các lĩnh vực mà mình quan tâm. Tôi thiết lập mối quan hệ chuyên môn, cộng tác, và học hỏi từ các thầy cô, các đồng nghiệp trong và ngoài trường đại học mà tôi công tác. Những trải nghiệm này rèn luyện cho tôi tính khiêm nhường và nền tảng đạo đức trong nghiên cứu, vốn không phải là điều mà một sớm một chiều có thể cảm thụ và thực hành hết được. Trong học thuật hay bất kỳ lĩnh vực nào hiện nay, người lãnh đạo hoặc trưởng nhóm không nhất thiết là quản lý hay cấp trên của bạn. Tính chuyên môn hóa và tầm quan trọng của các dự án liên ngành hoặc đòi hỏi nhiều chuyên môn sâu tạo điều kiện cho mỗi người có thể thuyết phục người khác cùng đồng hành với mình trong một điều gì đó mà mình khởi xướng. Bạn có thể là sinh viên và có thể là nhà nghiên cứu trẻ mà vẫn có thể là người khởi xướng trong công việc của mình. Để tạo ra sự thay đổi, chúng ta cần thái độ và tinh thần trách nhiệm với sự thay đổi đó chứ không cần một vị trí.
Mặt khác, ở trên lớp, tôi làm việc chăm chỉ để nhóm ngọn lửa đam mê đối với ngành tâm lý học vào trong lòng các sinh viên của mình. Tôi cố gắng cấu trúc kiến thức một cách hệ thống đủ để sinh viên có được bức tranh lớn và tầm nhìn rộng mở về môn học và về những gì họ có thể làm được với những kiến thức đó. Tôi cũng cho sinh viên thấy rằng tôi kỳ vọng cao ở họ và sẵn lòng trợ giúp hết mình để sinh viên có thể vượt qua nỗi sợ và hiện thực hóa những khả năng của họ. Những cuộc thảo luận trong lớp, việc chia sẻ tài nguyên và kế hoạch học tập trước mỗi giờ lên lớp là một phần trong kế hoạch giảng dạy lấy sinh viên làm trung tâm và trao trách nhiệm cho người học của tôi. Với những mảng chuyên môn mà tôi không nghiên cứu sâu, nếu trong vòng quen biết của mình có ai đó có chuyên môn hơn, tôi tìm cách mời họ về chia sẻ cho sinh viên của tôi trong buổi học về chủ đề đó thay vì cố gắng đọc sách và tỏ ra mình thông thái trong mọi vấn đề. Điều đó đơn giản là không thể, ngay cả với những giáo sư lâu năm, huống hồ gì là tôi, một người vừa vỏn vẹn một năm kinh nghiệm làm nghề giảng dạy. Tôi không chắc là tất cả sinh viên đều yêu thích và cảm thấy thoải mái với những yêu cầu cao của tôi. Nhưng tôi có thể chắc rằng với những ai thực tâm mong muốn mở mang trí óc để tạo ra sự thay đổi nơi chính mình và những người xung quanh, thì tôi cũng không đến nỗi làm cho họ thất vọng.
Tóm lại, nếu định nghĩa lãnh đạo là tạo ra sự thay đổi thì mỗi người trong chúng ta đều có thể làm được nếu chúng ta thực tâm mong muốn. Chúng ta không cần phải đợi một vị trí hoặc chức danh. Hãy đầu tư vào bản thân, sống đúng với những niềm tin và con người của mình, làm việc chăm chỉ, thú nhận những trăn trở, những nỗi sợ hãi và niềm vui sướng trong lòng mình, và cuối cùng, hãy tin tưởng vào chính mình cũng như những người bạn đồng hành của chúng ta. Đó là khi chúng ta tạo ra sự thay đổi và trở thành nhà lãnh đạo không cần chức danh.
* Bài nói chuyện của ThS. Phạm Thị Thủy Tiên, Giảng viên bộ môn Tâm lý học – Khoa Khoa Học Xã Hội trường Đại Học Hoa Sen trong Chương trình Chevening Youth Talk – Lãnh đạo không chức danh do Đại Sứ Quán Anh ở Việt Nam tổ chức sáng ngày 12-1-2019 tại iTechBlack - Coworking Incubator, TP. HCM.
Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2018
Triển vọng nghề nghiệp của ngành tâm lý học
Trước những đòi hỏi ngày một phức tạp hơn của nền kinh tế xã hội ngày nay, không riêng gì ở Việt Nam, tình trạng người trẻ tìm việc và nhà tuyển dụng không gặp được nhau và dường như đang đi trên hai đường thẳng song song là khá phổ biến. Hơn một phần ba các công ty trên toàn cầu gặp khó khăn trong quá trình tìm kiếm nhân lực chất lượng cao bởi vì sự thiếu hụt những kỹ năng then chốt ở người lao động như tư duy phân tích, giải quyết vấn đề, giao tiếp, hợp tác với đồng nghiệp và khả năng tự trau dồi kiến thức chuyên môn (Manpower Group, 2016; World Economic Forum, 2015).
Có thể bạn chưa biết, sự thật là các cử nhân tâm lý sở hữu những kỹ năng vàng được chào đón bởi các nhà tuyển dụng. Sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành tâm lý có thể làm việc ở rất nhiều ngành nghề đa dạng từ công tác xã hội, giáo dục, sức khỏe, đến bán hàng, nhân sự và quản trị kinh doanh. Nếu bạn có khả năng và yêu thích nghiên cứu, muốn trở thành nhà tâm lý trị liệu, tâm lý lâm sàng, giảng viên hoặc nhà khoa học tâm lý làm việc tại các trường đại học hoặc viện nghiên cứu thì bạn có thể chọn tiếp tục học lên cao học tại Việt Nam hoặc trên thế giới.
Bài viết này trình bày bốn kỹ năng quan trọng làm nên triển vọng nghề nghiệp đa dạng và ưu thế cạnh tranh của sinh viên tâm lý trong thị trường lao động chất lượng cao tại Việt Nam và thế giới.
Kỹ năng tư duy cần thiết (critical thinking skills)
Kỹ năng tư duy cần thiết là một hệ thống các phương pháp tư duy chủ động và phức tạp nhằm trả lời một câu hỏi hoặc tìm giải pháp cho một vấn đề. Khả năng phân tích, đánh giá những luận điểm, lập luận và bằng chứng của chính mình và người khác giúp người lao động làm chủ kiến thức và tư duy độc lập để xử lý những tình huống phức tạp của công việc. Ngay từ môn tâm lý học nhập môn ở năm nhất, sinh viên được tiếp cận với muôn vàn góc nhìn khác nhau về nguyên nhân và bản chất của hành vi con người, từ cấp độ vi mô nhất, là các nơ rôn trong não hộ, cho đến các mối quan hệ xã hội phức tạp của con người. Trong suốt bốn năm học, họ sẽ được học cách nhìn các hiện tượng tâm lý dưới nhiều lăng kính lý thuyết, phương pháp nghiên cứu, cách lập luận, và diễn giải để đi đến kết luận trên cơ sở cân nhắc cẩn thận dựa trên các tiêu chí rõ ràng.
Kỹ năng giải quyết vấn đề (problem solving skills)
Doanh nghiệp là nơi mà người lao động được kỳ vọng phải giải quyết nhiều vấn đề lớn nhỏ phát sinh hầu như mỗi ngày. Học tâm lý, sinh viên được học cách đặt câu hỏi nghiên cứu về các tiến trình tâm trí và hành vi của con người trong các bối cảnh khác nhau. Các câu hỏi này xoay quanh việc mô tả, lý giải, dự báo hay điều chỉnh hành vi của con người. Điểm manh của một sinh viên tâm lý là họ đã làm quen với việc xác định vấn đề, đề ra giả thuyết, lên kế hoạch nghiên cứu, thiết kế quy trình thu thập và phân tích dữ liệu để kiểm tra những giả thuyết đó và đi đến kết luận. Ngoài ra, sinh viên tâm lý được đào tạo bài bản cách thức tìm kiếm tài liệu trên internet, cách làm việc với dữ liệu định tính, định lượng và xử lý số liệu thống kê. Sinh viên cũng có khả năng đọc hiểu và đánh giá các tài liệu khoa học có liên quan đến lĩnh vực mà họ công tác trực tiếp như y tế, giáo dục, quản lý, nhân sự, và kinh doanh. Những năng lực này giúp cho sinh viên tâm lý trở thành người lao động có năng lực giải quyết vấn đề, ngay cả trong những điều kiện với nguồn lực tối thiểu.
Kỹ năng giao tiếp (communication skills)
Tâm lý học là ngành bắt buộc sinh viên phải đọc và viết nhiều so với mặt bằng chung nhiều môn học khác ở bậc đại học. Nếu như việc đọc nhiều cung cấp cho sinh viên vốn ngôn ngữ phong phú và khả năng diễn tả những vấn đề phức tạp và đa chiều, thì việc viết lách giúp họ áp dụng vốn từ đó để diễn đạt ý tưởng của mình một cách chính xác và thuyết phục. Tất cả các môn học đều đòi hỏi viết bài luận và báo cáo nghiên cứu dưới dạng viết hoặc thuyết trình với những đòi hỏi chi tiết về cả nội dung lẫn hình thức. Những yêu cầu này tạo cơ hội tuyệt vời cho sinh viên rèn dũa kỹ năng giao tiếp hiệu quả dưới sự hướng dẫn và phản hồi của giảng viên. Sinh viên tâm lý hiểu rằng tuân thủ quy cách trình bày là một cách thể hiện thái độ nghiêm túc và tận tâm trong chuyên môn, thay vì ỷ lại vào kiến thức của bản thân và cẩu thả trong giao tiếp.
Kỹ năng học tập suốt đời (life-long learning skills)
Học tập là một hành trình trọn đời. Nhà tuyển dụng tìm kiếm một nhân viên có khả năng tự học, tự trau dồi kiến thức chuyên môn thay vì một người thiếu chí tiến thủ. Tuy nhiên, kỹ năng tự học là cũng là một loại kỹ năng cần phải bỏ thời gian, tâm sức để rèn luyện chứ không phải tự dưng mà có. Lợi thế của sinh viên tâm lý học chính là ở điểm này. Các môn tâm lý học nhận thức và khoa học thần kinh cung cấp cho họ sự hiểu biết về các cơ chế vận hành và bản chất sinh học của trí nhớ, khả năng học tập, tiếp thu thông tin, khả năng tập trung chú ý và cả tính sáng tạo. Khả năng vận dụng những kiến thức này để nâng cao hiệu quả học tập của chính mình giúp cho người học tâm lý trở thành những nguồn nhân lực vô giá trong doanh nghiệp và ngoài xã hội.
Tóm lại, nếu bạn đang băn khoăn chưa biết chọn ngành nghề nào phù hợp với sở thích và khả năng của bản thân, thì tâm lý học là một lựa chọn đáng tìm hiểu. Khi chọn học tâm lý mà chưa có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, bạn cũng đừng quá lo lắng. Hãy chuyên tâm học hỏi với một cái tâm trong sáng, cởi mở trước những hướng đi mới lạ và kiến thức được truyền đạt, đồng thời mở rộng việc tham gia các hoạt động bên ngoài sách vở để tìm hiểu thêm những sở thích, đam mê, cũng như khả năng của bản thân. Học tâm lý ở bậc cử nhân vừa là hoạt động học tập trau dồi chuyên sâu những kiến thức thú vị và khoa học vừa là hoạt động liên tục tự tìm hiểu, định hướng, và mở những cánh cửa nghề nghiệp cho bản thân. Theo nghĩa này, tâm lý học vừa là môn học mang tính khai phóng, nhân văn, lại là môn học có tính ứng dụng cao. Cũng như bất kỳ ngành học hoặc chuyên môn nào khác, tâm lý học không phải là một ngành học dễ dàng, người học phải làm việc với thái độ nghiêm túc thì mới có thể giành được những phần thưởng xứng đáng.
Tham khảo
Manpower Group (2014). The Talent Shortage Continues: How the Ever Changing Role of HR Can Bridge the Gap (PDF).
World Economics Forum (2015). New Vision for Education – Unlocking the Potential of Technology, Chapter 1: The Skill Needed in the 21st Century.
Có thể bạn chưa biết, sự thật là các cử nhân tâm lý sở hữu những kỹ năng vàng được chào đón bởi các nhà tuyển dụng. Sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành tâm lý có thể làm việc ở rất nhiều ngành nghề đa dạng từ công tác xã hội, giáo dục, sức khỏe, đến bán hàng, nhân sự và quản trị kinh doanh. Nếu bạn có khả năng và yêu thích nghiên cứu, muốn trở thành nhà tâm lý trị liệu, tâm lý lâm sàng, giảng viên hoặc nhà khoa học tâm lý làm việc tại các trường đại học hoặc viện nghiên cứu thì bạn có thể chọn tiếp tục học lên cao học tại Việt Nam hoặc trên thế giới.
Bài viết này trình bày bốn kỹ năng quan trọng làm nên triển vọng nghề nghiệp đa dạng và ưu thế cạnh tranh của sinh viên tâm lý trong thị trường lao động chất lượng cao tại Việt Nam và thế giới.
Kỹ năng tư duy cần thiết (critical thinking skills)
Kỹ năng tư duy cần thiết là một hệ thống các phương pháp tư duy chủ động và phức tạp nhằm trả lời một câu hỏi hoặc tìm giải pháp cho một vấn đề. Khả năng phân tích, đánh giá những luận điểm, lập luận và bằng chứng của chính mình và người khác giúp người lao động làm chủ kiến thức và tư duy độc lập để xử lý những tình huống phức tạp của công việc. Ngay từ môn tâm lý học nhập môn ở năm nhất, sinh viên được tiếp cận với muôn vàn góc nhìn khác nhau về nguyên nhân và bản chất của hành vi con người, từ cấp độ vi mô nhất, là các nơ rôn trong não hộ, cho đến các mối quan hệ xã hội phức tạp của con người. Trong suốt bốn năm học, họ sẽ được học cách nhìn các hiện tượng tâm lý dưới nhiều lăng kính lý thuyết, phương pháp nghiên cứu, cách lập luận, và diễn giải để đi đến kết luận trên cơ sở cân nhắc cẩn thận dựa trên các tiêu chí rõ ràng.
Kỹ năng giải quyết vấn đề (problem solving skills)
Doanh nghiệp là nơi mà người lao động được kỳ vọng phải giải quyết nhiều vấn đề lớn nhỏ phát sinh hầu như mỗi ngày. Học tâm lý, sinh viên được học cách đặt câu hỏi nghiên cứu về các tiến trình tâm trí và hành vi của con người trong các bối cảnh khác nhau. Các câu hỏi này xoay quanh việc mô tả, lý giải, dự báo hay điều chỉnh hành vi của con người. Điểm manh của một sinh viên tâm lý là họ đã làm quen với việc xác định vấn đề, đề ra giả thuyết, lên kế hoạch nghiên cứu, thiết kế quy trình thu thập và phân tích dữ liệu để kiểm tra những giả thuyết đó và đi đến kết luận. Ngoài ra, sinh viên tâm lý được đào tạo bài bản cách thức tìm kiếm tài liệu trên internet, cách làm việc với dữ liệu định tính, định lượng và xử lý số liệu thống kê. Sinh viên cũng có khả năng đọc hiểu và đánh giá các tài liệu khoa học có liên quan đến lĩnh vực mà họ công tác trực tiếp như y tế, giáo dục, quản lý, nhân sự, và kinh doanh. Những năng lực này giúp cho sinh viên tâm lý trở thành người lao động có năng lực giải quyết vấn đề, ngay cả trong những điều kiện với nguồn lực tối thiểu.
Kỹ năng giao tiếp (communication skills)
Tâm lý học là ngành bắt buộc sinh viên phải đọc và viết nhiều so với mặt bằng chung nhiều môn học khác ở bậc đại học. Nếu như việc đọc nhiều cung cấp cho sinh viên vốn ngôn ngữ phong phú và khả năng diễn tả những vấn đề phức tạp và đa chiều, thì việc viết lách giúp họ áp dụng vốn từ đó để diễn đạt ý tưởng của mình một cách chính xác và thuyết phục. Tất cả các môn học đều đòi hỏi viết bài luận và báo cáo nghiên cứu dưới dạng viết hoặc thuyết trình với những đòi hỏi chi tiết về cả nội dung lẫn hình thức. Những yêu cầu này tạo cơ hội tuyệt vời cho sinh viên rèn dũa kỹ năng giao tiếp hiệu quả dưới sự hướng dẫn và phản hồi của giảng viên. Sinh viên tâm lý hiểu rằng tuân thủ quy cách trình bày là một cách thể hiện thái độ nghiêm túc và tận tâm trong chuyên môn, thay vì ỷ lại vào kiến thức của bản thân và cẩu thả trong giao tiếp.
Kỹ năng học tập suốt đời (life-long learning skills)
Học tập là một hành trình trọn đời. Nhà tuyển dụng tìm kiếm một nhân viên có khả năng tự học, tự trau dồi kiến thức chuyên môn thay vì một người thiếu chí tiến thủ. Tuy nhiên, kỹ năng tự học là cũng là một loại kỹ năng cần phải bỏ thời gian, tâm sức để rèn luyện chứ không phải tự dưng mà có. Lợi thế của sinh viên tâm lý học chính là ở điểm này. Các môn tâm lý học nhận thức và khoa học thần kinh cung cấp cho họ sự hiểu biết về các cơ chế vận hành và bản chất sinh học của trí nhớ, khả năng học tập, tiếp thu thông tin, khả năng tập trung chú ý và cả tính sáng tạo. Khả năng vận dụng những kiến thức này để nâng cao hiệu quả học tập của chính mình giúp cho người học tâm lý trở thành những nguồn nhân lực vô giá trong doanh nghiệp và ngoài xã hội.
Tóm lại, nếu bạn đang băn khoăn chưa biết chọn ngành nghề nào phù hợp với sở thích và khả năng của bản thân, thì tâm lý học là một lựa chọn đáng tìm hiểu. Khi chọn học tâm lý mà chưa có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, bạn cũng đừng quá lo lắng. Hãy chuyên tâm học hỏi với một cái tâm trong sáng, cởi mở trước những hướng đi mới lạ và kiến thức được truyền đạt, đồng thời mở rộng việc tham gia các hoạt động bên ngoài sách vở để tìm hiểu thêm những sở thích, đam mê, cũng như khả năng của bản thân. Học tâm lý ở bậc cử nhân vừa là hoạt động học tập trau dồi chuyên sâu những kiến thức thú vị và khoa học vừa là hoạt động liên tục tự tìm hiểu, định hướng, và mở những cánh cửa nghề nghiệp cho bản thân. Theo nghĩa này, tâm lý học vừa là môn học mang tính khai phóng, nhân văn, lại là môn học có tính ứng dụng cao. Cũng như bất kỳ ngành học hoặc chuyên môn nào khác, tâm lý học không phải là một ngành học dễ dàng, người học phải làm việc với thái độ nghiêm túc thì mới có thể giành được những phần thưởng xứng đáng.
Tham khảo
Manpower Group (2014). The Talent Shortage Continues: How the Ever Changing Role of HR Can Bridge the Gap (PDF).
World Economics Forum (2015). New Vision for Education – Unlocking the Potential of Technology, Chapter 1: The Skill Needed in the 21st Century.
Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2018
How the communication of scientific studies can go wrong!
A hilarious show in which the host demonstrated brilliantly a whole host of things that could go wrong with the results of a scientific study. The bias can come in many different forms, either intentionally or ignorantly. This is a useful material to be used in class. I would love to have some one helps with translating this video into Vietnamese one day because that would help if the student is not willingly or not comfortable with English (He speaks clear yet quite fast, and the story some times hard to follow due to cultural differences. You know, humor and funny stories do not always work across culture.)
Basically, the points can be discussed from this video can be:
1. Reliability (replicability)
2. Media reporting with bias
3. Oversimplifying in reporting and communicating science
4. Ethics
5. P-hacking of data
6. Critical thinking (as a researcher and as a consumer of information)
7. Publication bias (underestimation of replication studies)
Can you spot any other topics from the video? Please comment below.
More resources on the similar topics can be found at:
1. This article by the Chronicle of Higher Education, which discusses how the PR and the university researchers are not working well together and how that may harm.
2. I appreciate the work of Jessica Hartnett on her blog (http://notawfulandboring.blogspot.com), where all these materials can be found and credited to.
3. A Ted-Ed about why we must be skeptical consumers of information.
4. A Ted-Talk that demonstrates the real story of flaws in research design, sampling method, and assumptions that have persisted in medicine research for age.
Chọn thiết kế nghiên cứu 4: Độ tin cậy
Độ tin cậy giữa các bài kiểm tra tương đương (Parallel forms reliability), hay còn gọi là alternate form reliability, là độ tin cậy thể hiện qua tính nhất quán giữa các bài kiểm tra song song giống nhau (the consistency between parallel tests). Nhà nghiên cứu tạo ra hai forms (thang đo), cả hai cùng đo lường cùng một khái niệm (ví dụ, tính hướng ngoại). Sau đó, ông ta đưa bạn làm một form vào tuần này, và một form khác vào tuần tiếp theo. Chúng ta kỳ vọng rằng bạn sẽ đạt kết quả giống nhau ở cả hai form.
Độ tin cậy bên trong (internal reliability) đề cập đến tính nhất quán (internal consistency) giữa các đề mục hoặc câu hỏi bên trong một bài test hoặc một bản questionnaire. Spearman (1907) giới thiệu công thức KR20 và phương pháp tách đôi (split-half approach). Cách tách đôi đơn giản là ta chia đôi dữ kiện thành hai nhóm. Điểm số của một người tham gia được tính dựa vào mỗi nhóm đã tách này. Nếu thang đo có tính nhất quán thì hai điểm số này phải bằng (hoặc tương đương) nhau. Như vậy, với tất cả những người tham ta tính hệ số tương quan giữa kết quả test của họ ở hai nhóm câu hỏi này và kỳ vọng rằng chúng phải tương quan với nhau rất cao (nếu không muốn nói là cần phải thật hoàn hảo). Bạn có thể tính được hệ số tương quan split-half trong phần mềm thống kê, hệ số này cao chứng tỏ độ tin cậy của thang đo cao. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu hiện nay đã không còn chuộng cách thức này bởi vì có thể sinh ra thiên vị (bias) trong cách chia câu hỏi. Có một vài cách chia khác nhau, và vì vậy kết quả cũng có thể bị ảnh hưởng. Để giải quyết vấn đề này, Cronbach (1951) giới thiệu hệ số tương quan Cronbach’s alpha, với công thức tương tự và được mở rộng từ KR20 trong phương pháp tách đôi. Cách làm này đại ý là đi tìm tổng số tất cả các cách chia dữ kiện ra làm hai nhóm và tính hệ số tương quan cho từng nhóm rồi cuối cùng là tính giá trị trung bình của tất cả các hệ số tương quan này. Kết quả này gọi là Cronbach’s alpha, đây cũng là cách tính độ tin cậy bên trong của thang đo phổ biến nhất hiện nay (Field, 2009).
Ngoài ra, phương pháp tách đôi chỉ áp dụng khi nguyên cả bài test được thiết kế để đo lường cùng một thuộc tính tâm lý và không thể sử dụng trong những trường hợp mà thang đo gồm có nhiều thuộc tính khác nhau. Ví dụ, bài trắc nghiệm năm tính cách (Big-Five Inventory) là bộ câu hỏi dùng để đo lường năm mặt tính cách của con người là tính sẵn sàng trải nghiệm (openness to experience), tính tận tâm (conscientiousness), tính hướng ngoại (extroversion), tính tâm lý bất ổn (neuroticism), và tính dễ chịu (agreeableness). Trong trường hợp này, phương pháp tách đôi cũng không thể áp dụng được. Cách xử lý đơn giản đó là ta có thể tính Cronbach’s alpha cho từng thang đo nhỏ của mỗi thuộc tính trong thang đo (sub-scale) (Field, 2009).
Độ tin cậy bên ngoài (external reliability) gồm có 2 loại là test-retest reliability và inter-rater (inter-observer) reliability. Độ tin cậy test-retest (test-retest reliability) là tính nhất quán theo thời gian (consistency across time) của một thang đo (scale). Tương tự như ví dụ về cái cân, một thang đo hoặc bài test chỉ có thể đáng tin cậy khi nó đưa ra những kết quả nhất quán trong những lần đo khác nhau. Độ tin cậy inter-rater thể hiện qua tính nhất quán giữa những người đánh giá/ người quan sát (inter-rater consistency) khác nhau. Cohen’s kappa là cách tính inter-rater reliability phổ biến và được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu quan sát.
Tóm lại, khái niệm độ tin cậy theo nghĩa rộng là nói về tính nhất quán của kết quả nghiên cứu. Một trong những yếu tố quyết định giá trị của một giả thuyết hoặc lý thuyết chính là độ tin cậy, hay là sự tái lập qua mỗi lần nghiên cứu. Theo nghĩa hẹp và mang tính kỹ thuật hơn thì độ tin cậy là khái niệm nói về độ chính xác (precision) hay là tính nhất quán, trước sau như một (consistency) của một phép đo lường. Nếu phương pháp thu thập dữ liệu không đáng tin thì không thể nào đạt được sự tái lập trong kết quả nghiên cứu. Trong nhiều trường hợp, nhà nghiên cứu sử dụng lại một thang đo có sẵn, khi đó họ cần phải giải trình rằng lý do của việc chọn lựa đó, thông thường là dựa vào độ tin cậy của nó. Độ tin cậy này có thể được tham chiếu từ nghiên cứu trước, và cũng có thể được tính toán lại cho nhóm người tham gia (sample) ngay trong nghiên cứu hiện tại. Có khi, nhà nghiên cứu muốn theo đuổi một khái niệm tâm lý mới mà chưa có nhiều nghiên cứu trước đó, trong trường hợp này, họ có thể tự phát triển một thang đo mới và thiết kế một nghiên cứu riêng để kiểm tra độ tin cậy (reliability) và độ hiệu lực (validity) của thang đo đó. Ta sẽ nói về độ hiệu lực (validity) trong một bài viết khác.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)