Thứ Ba, 11 tháng 6, 2019

Phân biệt đối xử giới là gì?

Bài viết bên dưới bàn và chia sẻ một phần kết quả nghiên cứu mà tôi đã làm về phân biệt đối xử giới ở Việt Nam trong năm 2018.

Mời bạn xem bản preprint của bài báo cáo full bằng tiếng Anh ở đây
Link bài full tiếng Việt ở đây

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Tương đồng với kết quả từ các quốc gia khác như Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Chile, Hà Lan, Pháp, Anh, Nhật, Nam Phi, v.v…, người Việt Nam cho thấy họ có thái độ phân biệt đối xử theo giới (sexism/ sex discrimination), thể hiện qua hai khía cạnh là ác cảm và thiện cảm. Mức độ phân biệt đối xử này có liên quan với mức độ hài lòng trong công việc và sức khỏe tinh thần của người Việt Nam. Để đi đến kết luận trên, nhóm nghiên cứu của Bộ môn Tâm lý học thuộc Đại Học Hoa Sen đã kiểm tra dữ liệu của 542 người đi làm trên khắp Việt Nam bằng cách mời họ điền vào bảng khảo sát trực tuyến gồm các thang đo đã chuẩn hóa và được dịch sang tiếng Việt về thái độ giới, sự hài lòng trong công việc, và mức độ stress.

-----

PHẦN 1: PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ THEO GIỚI LÀ GÌ?

Nếu không có tác động nào bởi con người, thì xác suất một em bé ra đời là trai hoặc gái là 1/2. Và nếu giả định tỉ lệ sinh bằng tỉ lệ tử ở hai giới, thì ở bất kỳ thời điểm nào, 50% dân số thế giới là phụ nữ.

Trong khi đó:
Trong số 45 tổng thống Mỹ kể từ George Washington nhậm chức tổng thống đầu tiên vào năm 1789 cho đến thời Donald Trump đương nhiệm từ 2017 đến nay, không có một nữ tổng thống nào. Tỉ lệ là 0%.
Trong số các lãnh đạo của 500 công ty thuộc Fortune 500 list năm 2018, chỉ có 24 là phụ nữ. Tỉ lệ là 4.8%.
Trong số các thành viên nội các (ủy viên quốc hội) của các quốc gia trên thế giới, chỉ có 24% là phụ nữ. Ở Việt Nam, tỉ lệ này nhỉnh hơn trung bình thế giới một chút, vào khoảng 26%.
Ở một số quốc gia như Nhật, Hàn, Mỹ, tỉ lệ nữ bác sĩ là dưới 40%. Ở Nhật, tỉ lệ này là 20.3% (số liệu năm 2015, OECD).
Bạn chỉ cần gõ tìm ‘rate of female x around the world’ là sẽ tìm được các con số thống kê tương tự. Với x là những nghề như: bác sĩ, kỹ sư, nhà lãnh đạo chính trị, lãnh đạo công ty, nhà toán học, nhà vật lý học…

Những tỉ lệ kể trên có sự chênh lệch rất lớn so với tỉ lệ giới trong dân số. Có những tỉ lệ quá thấp và mặc dù tích lũy trong nhiều năm vẫn rất thấp (trường hợp tổng thống Mỹ) để có thể tin là hoàn toàn do ngẫu nhiên.

Theo thống kê ở Mỹ trong 10 năm vừa qua (2009 - 2018), tỉ lệ thu nhập của nữ so với nam dao động từ 80.3% - 82.5% (công việc tương đương, các yếu tố khác có liên quan như tuổi tác và trình độ là như nhau). Điều này có nghĩa là, cứ mỗi 1 đô la đàn ông kiếm được, thì phụ nữ được trả 80 xu.

Phụ nữ thường làm hầu hết hoặc phần lớn công việc nhà mang tính thường nhật, mặc dù họ vẫn đi làm mỗi ngày với thời gian y như đàn ông. Trong một báo cáo của ILO - Gallup năm 2017, 44% đàn ông Việt Nam và 38% đàn ông nói chung nói rằng họ muốn người phụ nữ trong gia đình mình có thể vừa có công việc làm được trả lương và vừa ở nhà chăm sóc gia đình (2).

Những con số trên đây là bằng chứng của một vấn đề xã hội lớn mang tên: bất bình đẳng giới (gender inequality). Tất nhiên, những chỉ số về bất bình đẳng giới còn bao hàm rất nhiều yếu tố khác nữa như cơ hội giáo dục cho trẻ em gái, đa dạng ngành nghề, cơ hội thăng tiến cho phái nữ, v.v… Việt Nam đứng thứ 69 trong tổng số gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ về chỉ số bất bình đẳng giới theo báo cáo của UNDP năm 2017.

Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào khái niệm phân biệt đối xử giới (PBĐX) vì hai lý do chính. Một mặt, các nghiên cứu về giới đã làm ở Việt Nam thường tập trung vào các chỉ số của bất bình đẳng giới thay vì tìm hiểu nhận thức về giới của mỗi cá nhân. Mặt khác, nghiên cứu đã chỉ ra rằng thái độ về vai trò giới của mỗi thành viên trong một xã hội có thể tạo ra bất bình đẳng trong xã hội đó (3,4). PBĐX giới bao gồm các tư duy khuôn mẫu giới, định kiến giới, và những thái độ, kỳ vọng hay cách đối đãi với một người theo những cách khác nhau tùy vào giới tính của họ. ‘Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm’, làm trai cho đáng nên trai’, hay ‘đàn bà học cao khó lấy chồng’ là những quan niệm có tính phân biệt đối xử giới bởi vì nó đóng khung cho phụ nữ và đàn ông những vai trò khác nhau. Ở các thế kỷ trước, một số quan niệm Khổng Tử, Nho giáo của Trung Quốc như ‘tam tòng tứ đức’, ‘trai anh hùng, gái thuyền quyên’ có du nhập vào dân gian bằng con đường văn hóa, giáo dục, đặc biệt ảnh hưởng đến những gia đình có học thức. Đại đa số quần chúng thuần nông ít học hơn khá bình đẳng, tự do yêu đương, thành thân với người mình yêu, sau khi kết hôn cả hai cùng ‘bình đẳng’ và chia sẻ trách nhiệm gia đình với nhau (5). Vào thời kỳ công nghiệp hóa những năm 1960, phụ nữ Mỹ bị bó hẹp trong khuôn bếp - tháp ngà 'mơ ước' của phụ nữ trẻ. Mục tiêu quan trọng nhất của người phụ nữ đến tuổi trưởng thành là có một người đàn ông đủ điều kiện kinh tế kết hôn với mình. Khi họ có cảm giác không ổn mà không thể nêu rành rọt lý do tại sao, bác sĩ liền chẩn đoán rằng họ mắc chứng tâm thần (mental illness) vì chỉ có điên mới không hài lòng với đời sống được cung phụng đầy đủ như hiện có - và quan trọng hơn đó là mô hình kiểu mẫu của xã hội, là mục tiêu cuộc đời của mọi phụ nữ (6). Xã hội công nghiệp vận hành suôn sẻ khi phụ nữ ở nhà lo nhà cửa, con cái, để những người đàn ông toàn tâm toàn ý đi làm công nhân ở xưởng. Việt Nam lại có truyền thống kêu gọi phụ nữ tham gia lao động sản xuất, tham gia chiến đấu trong quá khứ. Ngày nay, ở những gia đình bình dân và trung lưu, phụ nữ Việt Nam vẫn đi làm để chia sẻ gánh vác tài chính, vì thời buổi kinh tế có bao giờ thôi khó khăn! Nhưng với điều kiện cô ta vẫn phải đảm bảo tề gia nội trợ. Bởi vì cô ấy mà không làm, thì ai vào đây? Đi làm về, vợ nấu nướng, chồng ngồi đọc báo, xem ti vi chờ cơm, ăn xong vợ rửa chén dọn dẹp, chồng lại đọc báo, xem ti vi (hoặc giờ là ôm máy vi tính) là chuyện thường tình ở huyện. Chỗ của đàn ông không phải là cái bếp. Anh ta nếu phải làm việc nhà thì chỉ là những việc lớn thảng hoặc như sửa ống nước hay quét lại cái tường nhà. Con cái cứ nhìn vào bố mẹ, y như thế mà sống nếp cũ khi có gia đình riêng. Vòng lặp của vai trò giới cứ thế tiếp diễn mà chẳng ai buồn bận tâm, vì cuộc sống đã quẳng cho đủ các mối lo rồi, ai rỗi hơi đào sới lên cho mất đoàn kết, lủng củng nội bộ.

Hiện nay, giới nghiên cứu về định kiến nhất quán với lý thuyết rằng PBĐX giới tồn tại ở hai dạng: ác cảm và thiện cảm (7). PBĐX ác cảm là thái độ đánh giá thấp năng lực và phẩm chất của phụ nữ và vì vậy cư xử có tính áp đặt trong mối quan hệ với những người phụ nữ xung quanh và cho rằng phụ nữ đòi hỏi quyền lợi hoặc công bằng là những người có tính thù địch và muốn tranh đua ngôi vị thống trị của nam giới. Quấy rối và tấn công tình dục là một biểu hiện của PBĐX ác cảm với phụ nữ, rằng phụ nữ là vật thể nhục tính (sex object) chứ không phải một cá thể có những giá trị ngang hàng với nam giới. Thái độ thù địch, ác cảm với các nhà nữ quyền hoặc những người phụ nữ thành công trong sự nghiệp hoặc thóa mạ, dè bỉu nữ lãnh đạo một cách tục tĩu, thô lỗ cũng là biểu hiện của thái độ PBĐX giới ác cảm.

PBĐX thiện cảm là thái độ cho rằng phụ nữ sở hữu những phẩm chất và khả năng mà nam giới không có như nhạy cảm hơn, có gu thẩm mĩ hơn, và có tính thuần khiết, ấm áp. Họ cho rằng phụ nữ cần được đàn ông chăm lo, bảo vệ, và gánh vác trách nhiệm tài chính. Đổi lại, phụ nữ đóng vai trò bổ trợ, hoàn thiện đàn ông. Đàn ông cần có phụ nữ yêu thương và chăm lo đời sống tình cảm, quán xuyến gia đình để họ yên tâm ‘trở thành chính mình’ - người đàn ông sắm vai trụ cột gia đình và là thành viên tích cực trong xã hội. Nhìn chung, PBĐX thiện cảm thoạt nhìn thì dường như có ý tốt từ phía chủ thể phân biệt, nhưng thực sự thì nó cũng ngụ ý rằng phụ nữ thua kém đàn ông ở những phẩm chất cần thiết để làm chủ xã hội. Không chỉ nam giới mà phụ nữ cũng có thái độ phân biệt đối xử giới thiện cảm. Họ có thể lên án và nhận ra sự sai trái của việc quấy rối tình dục hoặc thóa mạ phụ nữ ngay lập tức. Nhưng họ chấp nhận một cách hiển nhiên việc mình phải đảm đương hầu hết việc nhà và phần lớn việc chăm sóc, dạy dỗ con cái. Đổi lại, họ có một mái ấm gia đình và một người chồng chí thú làm ăn, có trách nhiệm với vợ con, không có tật xấu gì đáng kể.

Những quan niệm phân biệt đối xử, dù là ác cảm hay thiện cảm, đều có tác hại đối với cả người bị phân biệt và người phân biệt. Dù là ở góc độ cá nhân, tổ chức, hay xã hội thì các dạng phân biệt đối xử theo giới đều có những tác động tiêu cực.

PHẦN 2: PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ GIỚI THÌ CÓ LIÊN QUAN GÌ ĐẾN TÔI?

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1). Phạm T. T. Tiên, Nguyễn H. Ân, Nguyễn T. Loan, Phan T.H.D Thy, Lê M. Thuận (2018). Mối quan hệ giữa phân biệt đối xử theo giới với sự hài lòng trong công việc và sức khỏe tinh thần của người lao động Việt Nam. Dự án nghiên cứu được tài trợ bởi Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và Bộ Lao Động Thương Binh & Xã Hội trong khuôn khổ cuộc thi Nghiên cứu Lao động 2018 (preprint)

(2). ILO-Gallup (2017). Towards a better future for women and work: Voices of women and men. (pdf)

(3). Brandt, M. J. (2011) ‘Sexism and gender inequality across 57 societies’, Psychological Science, 22(11), pp. 1413–1418. doi: 10.1177/0956797611420445.

(4). Glick, P., Fiske, S.T., (2000), “An ambivalent alliance: Hostile and benevolent sexim as complementary justifications for gender inequality”, American Psychologist, Vol 56, No.2, 109 – 118. American Psychological Association, US.

(5). Thông tin từ Th.S Đỗ Hồng Quân – nhà nghiên cứu và giảng viên môn Giới và phát triển, chia sẻ về Luận văn tiến sĩ của một nghiên cứu sinh người Hàn về Vị thế của phụ nữ Việt Nam qua bộ Lê triều hình luật, tại hội thảo Gender Talk ngày 14/3 tại trường Đại Học Hoa Sen.

(6). Friedan, Betty. (1963). Bí ẩn nữ tính. Nguyễn Vân Hà dịch.TP. HCM. NXB: Hồng Đức

(7). Glick, P. & Fiske, S. T. (1996) ‘The Ambivalent Sexism lnventory: Differentiating hostile and benevolen sexism’, Journal of Personality and Social Psychology, 70(3), pp. 491–512.

Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2019

Liệu chúng ta có thể trở thành những người lãnh đạo không?*

Tôi rất vinh dự và vui sướng được đứng ở đây hôm nay cùng các bạn. Trong số các bạn, có những người đang là hoặc sẽ là lãnh đạo tại cơ quan mà bạn làm việc, của một cộng đồng yếu thế mà bạn đứng ra bảo vệ quyền lợi, hoặc là của đất nước mà bạn gọi là ‘nhà’. Tôi ước gì ông bà nội của tôi có thể nhìn thấy tôi ở đây hôm nay cùng các bạn. Họ đã dõi bước chân tôi những năm tôi lăn xả vào cuộc đời sinh viên, rồi sau đó là nhưng năm va vấp, vất vả tìm kiếm con đường nghề nghiệp và bản sắc chuyên môn của mình. Tôi hy vọng câu chuyện của mình sẽ góp phần làm cho các bạn thêm tin tưởng rằng nếu chúng ta thực tâm mong muốn và làm việc chăm chỉ với tâm hồn trong sáng rộng mở, chúng ta sẽ tự mở ra cho mình rất nhiều cơ hội và khả năng giành lấy cho mình một cuộc đời hạnh phúc và có ích. Đối với những bạn đến đây với mục tiêu rất cụ thể là học hỏi về việc làm sao để lãnh đạo trong khi mà chúng ta không giữ một chức vụ trưởng hoặc phó nào đó trong cơ quan mình đang làm việc, tôi hy vọng bạn tìm thấy cho mình ý nghĩa thực sự đằng sau cụm từ ‘lãnh đạo’ hoa mĩ và có vẻ đáng sợ kia. Với tư cách là một người nghiên cứu về não bộ và hành vi của con người, tôi muốn nhấn mạnh với các bạn một điều rằng chúng ta sinh ra với những tiềm năng vô hạn, nhưng chúng ta lớn lên và đánh mất rất nhiều qua quá trình thích nghi và tiếp thu đời sống xã hội với nhiều rào cản vô hình. Và tôi không có chút nghi ngờ nào mà phải nói rằng, nếu chúng ta có thể tận dụng những gì chúng ta được tự nhiên ban cho, mỗi người trong chúng ta luôn có thể trở thành nhiều hơn những gì chúng ta đang thể hiện.

Để nói về đất nước quê hương của mình một cách hoàn toàn khách quan là điều thật khó. Việt Nam là nơi mà tôi sẽ luôn có những cảm xúc trìu mến nhất mỗi khi nhắc đến. Còn nước Anh lại là nguồn cảm hứng và là một phần bản sắc chuyên môn của tôi. Được gặp gỡ, có một năm gắn bó và rồi yêu mến nước Anh là một điều vô cùng may mắn đối với tôi. Quê hương thứ hai này có những nhà khoa học tận tụy và thầm lặng, có ngôi trường và người thầy đã dạy cho tôi biết thế nào là một người lãnh đạo học thuật chân chính. Các thầy cô của tôi, họ làm việc chăm chỉ và nghiêm túc. Họ làm cho mỗi bài giảng trở thành một trải nghiệm quý giá với một sinh viên bỡ ngỡ bước chân vào giới học thuật mà như Alice trong xứ sở thần tiên. Những bài giảng của họ không quyển sách giáo khoa nào có thể sánh ngang. Trên tất cả, những bài tập mà họ giao và các phản hồi thấu đáo mà họ gửi lại cho tôi là điều đặc biệt nhất của trải nghiệm đi học đại học sau nhiều năm tôi miệt mài tự học và phải tự làm giáo viên cho chính mình. Khi làm nghiên cứu, bằng thái độ kiên nhẫn, ủng hộ và cũng rất cẩn trọng trong việc đưa ra những chỉ dẫn, thầy tôi trao trách nhiệm học tập cho tôi và chính ông cũng giữ lấy trách nhiệm ấy cho mình.

Mối quan hệ với thầy hướng dẫn cũng là kim chỉ nan dẫn đường cho tôi trong con đường phát triển nghề nghiệp mới vừa chớm nở. Hiện nay, công việc của tôi ở trường đại học là giảng dạy và nghiên cứu. Tôi làm việc một tuần hơn 50 tiếng. Một mặt, tôi nghiên cứu và học tập về các lĩnh vực mà mình quan tâm. Tôi thiết lập mối quan hệ chuyên môn, cộng tác, và học hỏi từ các thầy cô, các đồng nghiệp trong và ngoài trường đại học mà tôi công tác. Những trải nghiệm này rèn luyện cho tôi tính khiêm nhường và nền tảng đạo đức trong nghiên cứu, vốn không phải là điều mà một sớm một chiều có thể cảm thụ và thực hành hết được. Trong học thuật hay bất kỳ lĩnh vực nào hiện nay, người lãnh đạo hoặc trưởng nhóm không nhất thiết là quản lý hay cấp trên của bạn. Tính chuyên môn hóa và tầm quan trọng của các dự án liên ngành hoặc đòi hỏi nhiều chuyên môn sâu tạo điều kiện cho mỗi người có thể thuyết phục người khác cùng đồng hành với mình trong một điều gì đó mà mình khởi xướng. Bạn có thể là sinh viên và có thể là nhà nghiên cứu trẻ mà vẫn có thể là người khởi xướng trong công việc của mình. Để tạo ra sự thay đổi, chúng ta cần thái độ và tinh thần trách nhiệm với sự thay đổi đó chứ không cần một vị trí.

Mặt khác, ở trên lớp, tôi làm việc chăm chỉ để nhóm ngọn lửa đam mê đối với ngành tâm lý học vào trong lòng các sinh viên của mình. Tôi cố gắng cấu trúc kiến thức một cách hệ thống đủ để sinh viên có được bức tranh lớn và tầm nhìn rộng mở về môn học và về những gì họ có thể làm được với những kiến thức đó. Tôi cũng cho sinh viên thấy rằng tôi kỳ vọng cao ở họ và sẵn lòng trợ giúp hết mình để sinh viên có thể vượt qua nỗi sợ và hiện thực hóa những khả năng của họ. Những cuộc thảo luận trong lớp, việc chia sẻ tài nguyên và kế hoạch học tập trước mỗi giờ lên lớp là một phần trong kế hoạch giảng dạy lấy sinh viên làm trung tâm và trao trách nhiệm cho người học của tôi. Với những mảng chuyên môn mà tôi không nghiên cứu sâu, nếu trong vòng quen biết của mình có ai đó có chuyên môn hơn, tôi tìm cách mời họ về chia sẻ cho sinh viên của tôi trong buổi học về chủ đề đó thay vì cố gắng đọc sách và tỏ ra mình thông thái trong mọi vấn đề. Điều đó đơn giản là không thể, ngay cả với những giáo sư lâu năm, huống hồ gì là tôi, một người vừa vỏn vẹn một năm kinh nghiệm làm nghề giảng dạy. Tôi không chắc là tất cả sinh viên đều yêu thích và cảm thấy thoải mái với những yêu cầu cao của tôi. Nhưng tôi có thể chắc rằng với những ai thực tâm mong muốn mở mang trí óc để tạo ra sự thay đổi nơi chính mình và những người xung quanh, thì tôi cũng không đến nỗi làm cho họ thất vọng.

Tóm lại, nếu định nghĩa lãnh đạo là tạo ra sự thay đổi thì mỗi người trong chúng ta đều có thể làm được nếu chúng ta thực tâm mong muốn. Chúng ta không cần phải đợi một vị trí hoặc chức danh. Hãy đầu tư vào bản thân, sống đúng với những niềm tin và con người của mình, làm việc chăm chỉ, thú nhận những trăn trở, những nỗi sợ hãi và niềm vui sướng trong lòng mình, và cuối cùng, hãy tin tưởng vào chính mình cũng như những người bạn đồng hành của chúng ta. Đó là khi chúng ta tạo ra sự thay đổi và trở thành nhà lãnh đạo không cần chức danh.

* Bài nói chuyện của ThS. Phạm Thị Thủy Tiên, Giảng viên bộ môn Tâm lý học – Khoa Khoa Học Xã Hội trường Đại Học Hoa Sen trong Chương trình Chevening Youth Talk – Lãnh đạo không chức danh do Đại Sứ Quán Anh ở Việt Nam tổ chức sáng ngày 12-1-2019 tại iTechBlack - Coworking Incubator, TP. HCM.

Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2018

Triển vọng nghề nghiệp của ngành tâm lý học

Trước những đòi hỏi ngày một phức tạp hơn của nền kinh tế xã hội ngày nay, không riêng gì ở Việt Nam, tình trạng người trẻ tìm việc và nhà tuyển dụng không gặp được nhau và dường như đang đi trên hai đường thẳng song song là khá phổ biến. Hơn một phần ba các công ty trên toàn cầu gặp khó khăn trong quá trình tìm kiếm nhân lực chất lượng cao bởi vì sự thiếu hụt những kỹ năng then chốt ở người lao động như tư duy phân tích, giải quyết vấn đề, giao tiếp, hợp tác với đồng nghiệp và khả năng tự trau dồi kiến thức chuyên môn (Manpower Group, 2016; World Economic Forum, 2015). 

Có thể bạn chưa biết, sự thật là các cử nhân tâm lý sở hữu những kỹ năng vàng được chào đón bởi các nhà tuyển dụng. Sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành tâm lý có thể làm việc ở rất nhiều ngành nghề đa dạng từ công tác xã hội, giáo dục, sức khỏe, đến bán hàng, nhân sự và quản trị kinh doanh. Nếu bạn có khả năng và yêu thích nghiên cứu, muốn trở thành nhà tâm lý trị liệu, tâm lý lâm sàng, giảng viên hoặc nhà khoa học tâm lý làm việc tại các trường đại học hoặc viện nghiên cứu thì bạn có thể chọn tiếp tục học lên cao học tại Việt Nam hoặc trên thế giới. 

Bài viết này trình bày bốn kỹ năng quan trọng làm nên triển vọng nghề nghiệp đa dạng và ưu thế cạnh tranh của sinh viên tâm lý trong thị trường lao động chất lượng cao tại Việt Nam và thế giới. 

Kỹ năng tư duy cần thiết (critical thinking skills) 
Kỹ năng tư duy cần thiết là một hệ thống các phương pháp tư duy chủ động và phức tạp nhằm trả lời một câu hỏi hoặc tìm giải pháp cho một vấn đề. Khả năng phân tích, đánh giá những luận điểm, lập luận và bằng chứng của chính mình và người khác giúp người lao động làm chủ kiến thức và tư duy độc lập để xử lý những tình huống phức tạp của công việc. Ngay từ môn tâm lý học nhập môn ở năm nhất, sinh viên được tiếp cận với muôn vàn góc nhìn khác nhau về nguyên nhân và bản chất của hành vi con người, từ cấp độ vi mô nhất, là các nơ rôn trong não hộ, cho đến các mối quan hệ xã hội phức tạp của con người. Trong suốt bốn năm học, họ sẽ được học cách nhìn các hiện tượng tâm lý dưới nhiều lăng kính lý thuyết, phương pháp nghiên cứu, cách lập luận, và diễn giải để đi đến kết luận trên cơ sở cân nhắc cẩn thận dựa trên các tiêu chí rõ ràng. 

Kỹ năng giải quyết vấn đề (problem solving skills) 
Doanh nghiệp là nơi mà người lao động được kỳ vọng phải giải quyết nhiều vấn đề lớn nhỏ phát sinh hầu như mỗi ngày. Học tâm lý, sinh viên được học cách đặt câu hỏi nghiên cứu về các tiến trình tâm trí và hành vi của con người trong các bối cảnh khác nhau. Các câu hỏi này xoay quanh việc mô tả, lý giải, dự báo hay điều chỉnh hành vi của con người. Điểm manh của một sinh viên tâm lý là họ đã làm quen với việc xác định vấn đề, đề ra giả thuyết, lên kế hoạch nghiên cứu, thiết kế quy trình thu thập và phân tích dữ liệu để kiểm tra những giả thuyết đó và đi đến kết luận. Ngoài ra, sinh viên tâm lý được đào tạo bài bản cách thức tìm kiếm tài liệu trên internet, cách làm việc với dữ liệu định tính, định lượng và xử lý số liệu thống kê. Sinh viên cũng có khả năng đọc hiểu và đánh giá các tài liệu khoa học có liên quan đến lĩnh vực mà họ công tác trực tiếp như y tế, giáo dục, quản lý, nhân sự, và kinh doanh. Những năng lực này giúp cho sinh viên tâm lý trở thành người lao động có năng lực giải quyết vấn đề, ngay cả trong những điều kiện với nguồn lực tối thiểu. 

Kỹ năng giao tiếp (communication skills) 
Tâm lý học là ngành bắt buộc sinh viên phải đọc và viết nhiều so với mặt bằng chung nhiều môn học khác ở bậc đại học. Nếu như việc đọc nhiều cung cấp cho sinh viên vốn ngôn ngữ phong phú và khả năng diễn tả những vấn đề phức tạp và đa chiều, thì việc viết lách giúp họ áp dụng vốn từ đó để diễn đạt ý tưởng của mình một cách chính xác và thuyết phục. Tất cả các môn học đều đòi hỏi viết bài luận và báo cáo nghiên cứu dưới dạng viết hoặc thuyết trình với những đòi hỏi chi tiết về cả nội dung lẫn hình thức. Những yêu cầu này tạo cơ hội tuyệt vời cho sinh viên rèn dũa kỹ năng giao tiếp hiệu quả dưới sự hướng dẫn và phản hồi của giảng viên. Sinh viên tâm lý hiểu rằng tuân thủ quy cách trình bày là một cách thể hiện thái độ nghiêm túc và tận tâm trong chuyên môn, thay vì ỷ lại vào kiến thức của bản thân và cẩu thả trong giao tiếp. 

Kỹ năng học tập suốt đời (life-long learning skills) 
Học tập là một hành trình trọn đời. Nhà tuyển dụng tìm kiếm một nhân viên có khả năng tự học, tự trau dồi kiến thức chuyên môn thay vì một người thiếu chí tiến thủ. Tuy nhiên, kỹ năng tự học là cũng là một loại kỹ năng cần phải bỏ thời gian, tâm sức để rèn luyện chứ không phải tự dưng mà có. Lợi thế của sinh viên tâm lý học chính là ở điểm này. Các môn tâm lý học nhận thức và khoa học thần kinh cung cấp cho họ sự hiểu biết về các cơ chế vận hành và bản chất sinh học của trí nhớ, khả năng học tập, tiếp thu thông tin, khả năng tập trung chú ý và cả tính sáng tạo. Khả năng vận dụng những kiến thức này để nâng cao hiệu quả học tập của chính mình giúp cho người học tâm lý trở thành những nguồn nhân lực vô giá trong doanh nghiệp và ngoài xã hội. 

Tóm lại, nếu bạn đang băn khoăn chưa biết chọn ngành nghề nào phù hợp với sở thích và khả năng của bản thân, thì tâm lý học là một lựa chọn đáng tìm hiểu. Khi chọn học tâm lý mà chưa có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, bạn cũng đừng quá lo lắng. Hãy chuyên tâm học hỏi với một cái tâm trong sáng, cởi mở trước những hướng đi mới lạ và kiến thức được truyền đạt, đồng thời mở rộng việc tham gia các hoạt động bên ngoài sách vở để tìm hiểu thêm những sở thích, đam mê, cũng như khả năng của bản thân. Học tâm lý ở bậc cử nhân vừa là hoạt động học tập trau dồi chuyên sâu những kiến thức thú vị và khoa học vừa là hoạt động liên tục tự tìm hiểu, định hướng, và mở những cánh cửa nghề nghiệp cho bản thân. Theo nghĩa này, tâm lý học vừa là môn học mang tính khai phóng, nhân văn, lại là môn học có tính ứng dụng cao. Cũng như bất kỳ ngành học hoặc chuyên môn nào khác, tâm lý học không phải là một ngành học dễ dàng, người học phải làm việc với thái độ nghiêm túc thì mới có thể giành được những phần thưởng xứng đáng. 

Tham khảo 
 Manpower Group (2014). The Talent Shortage Continues: How the Ever Changing Role of HR Can Bridge the Gap (PDF).
World Economics Forum (2015). New Vision for Education – Unlocking the Potential of Technology, Chapter 1: The Skill Needed in the 21st Century. 

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2018

How the communication of scientific studies can go wrong!



A hilarious show in which the host demonstrated brilliantly a whole host of things that could go wrong with the results of a scientific study. The bias can come in many different forms, either intentionally or ignorantly. This is a useful material to be used in class. I would love to have some one helps with translating this video into Vietnamese one day because that would help if the student is not willingly or not comfortable with English (He speaks clear yet quite fast, and the story some times hard to follow due to cultural differences. You know, humor and funny stories do not always work across culture.)

Basically, the points can be discussed from this video can be:
1. Reliability (replicability)
2. Media reporting with bias
3. Oversimplifying in reporting and communicating science
4. Ethics
5. P-hacking of data
6. Critical thinking (as a researcher and as a consumer of information)
7. Publication bias (underestimation of replication studies)

Can you spot any other topics from the video? Please comment below.

More resources on the similar topics can be found at:

1. This article by the Chronicle of Higher Education, which discusses how the PR and the university researchers are not working well together and how that may harm.

2. I appreciate the work of Jessica Hartnett on her blog (http://notawfulandboring.blogspot.com), where all these materials can be found and credited to.

3. A Ted-Ed about why we must be skeptical consumers of information.

4. A Ted-Talk that demonstrates the real story of flaws in research design, sampling method, and assumptions that have persisted in medicine research for age.


Chọn thiết kế nghiên cứu 4: Độ tin cậy


Nếu một nghiên cứu được tiến hành dựa theo các nguyên tắc khoa học thì ta có thể nói rằng đó là một nghiên cứu có giá trị khoa học. Ngoài ra, khi nói về chất lượng của một nghiên cứu khoa học và kết luận của nó, ta còn có khái niệm độ tin cậy (reliability) và độ hiệu lực (validity). Độ tin cậy đề cập tới sự nhất quán, trước sau như một (consistency). Điều này có nghĩa là kết quả nghiên cứu được tái lập trong những lần nghiên cứu lặp lại theo sau nghiên cứu đầu tiên (xem ví dụ về nguyên tắc lặp lại trong khoa học ở đây). Giả sử, bạn muốn biết cân nặng của mình và cân thử vài lần khác nhau trong cùng một ngày, bạn chắc hẳn sẽ kỳ vọng mình sẽ nhận được cùng một kết quả. Nếu một chiếc cân cho kết quả lần nào đo cũng khác nhau trong cùng 1 ngày thì có vẻ như là một chiếc cân có vấn đề và hơi bị vô dụng bởi vì bạn sẽ không biết đâu mới thực sự là kết quả đúng. Như bạn thấy đó, để đạt được sự tái lập thì nhà nghiên cứu phải đảm bảo rằng ông ta đo lường các dữ kiện của mình một cách chính xác, nghĩa là tính biến thiên của dữ kiện phải nằm trong mức chấp nhận được (vì luôn có các sai số ngẫu nhiên nên ta không thể kỳ vọng dữ kiện sẽ luôn giống nhau ở những lần đo khác nhau, xem lại bài tính biến thiên ở đây). Vậy làm sao để biết phép đo lường dữ kiện của một nghiên cứu là chính xác, hoặc nói cách khác, là có độ tin cậy cao? Có một vài cách kiểm tra độ tin cậy khác nhau; tuy nhiên, tất cả đều được thể hiện bằng hệ số tương quan (correlational coefficient).

Độ tin cậy giữa các bài kiểm tra tương đương (Parallel forms reliability), hay còn gọi là alternate form reliability, là độ tin cậy thể hiện qua tính nhất quán giữa các bài kiểm tra song song giống nhau (the consistency between parallel tests). Nhà nghiên cứu tạo ra hai forms (thang đo), cả hai cùng đo lường cùng một khái niệm (ví dụ, tính hướng ngoại). Sau đó, ông ta đưa bạn làm một form vào tuần này, và một form khác vào tuần tiếp theo. Chúng ta kỳ vọng rằng bạn sẽ đạt kết quả giống nhau ở cả hai form.

Độ tin cậy bên trong (internal reliability) đề cập đến tính nhất quán (internal consistency) giữa các đề mục hoặc câu hỏi bên trong một bài test hoặc một bản questionnaire. Spearman (1907) giới thiệu công thức KR20 và phương pháp tách đôi (split-half approach). Cách tách đôi đơn giản là ta chia đôi dữ kiện thành hai nhóm. Điểm số của một người tham gia được tính dựa vào mỗi nhóm đã tách này. Nếu thang đo có tính nhất quán thì hai điểm số này phải bằng (hoặc tương đương) nhau. Như vậy, với tất cả những người tham ta tính hệ số tương quan giữa kết quả test của họ ở hai nhóm câu hỏi này và kỳ vọng rằng chúng phải tương quan với nhau rất cao (nếu không muốn nói là cần phải thật hoàn hảo). Bạn có thể tính được hệ số tương quan split-half trong phần mềm thống kê, hệ số này cao chứng tỏ độ tin cậy của thang đo cao. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu hiện nay đã không còn chuộng cách thức này bởi vì có thể sinh ra thiên vị (bias) trong cách chia câu hỏi. Có một vài cách chia khác nhau, và vì vậy kết quả cũng có thể bị ảnh hưởng. Để giải quyết vấn đề này, Cronbach (1951) giới thiệu hệ số tương quan Cronbach’s alpha, với công thức tương tự và được mở rộng từ KR20 trong phương pháp tách đôi. Cách làm này đại ý là đi tìm tổng số tất cả các cách chia dữ kiện ra làm hai nhóm và tính hệ số tương quan cho từng nhóm rồi cuối cùng là tính giá trị trung bình của tất cả các hệ số tương quan này. Kết quả này gọi là Cronbach’s alpha, đây cũng là cách tính độ tin cậy bên trong của thang đo phổ biến nhất hiện nay (Field, 2009).

Ngoài ra, phương pháp tách đôi chỉ áp dụng khi nguyên cả bài test được thiết kế để đo lường cùng một thuộc tính tâm lý và không thể sử dụng trong những trường hợp mà thang đo gồm có nhiều thuộc tính khác nhau. Ví dụ, bài trắc nghiệm năm tính cách (Big-Five Inventory) là bộ câu hỏi dùng để đo lường năm mặt tính cách của con người là tính sẵn sàng trải nghiệm (openness to experience), tính tận tâm (conscientiousness), tính hướng ngoại (extroversion), tính tâm lý bất ổn (neuroticism), và tính dễ chịu (agreeableness). Trong trường hợp này, phương pháp tách đôi cũng không thể áp dụng được. Cách xử lý đơn giản đó là ta có thể tính Cronbach’s alpha cho từng thang đo nhỏ của mỗi thuộc tính trong thang đo (sub-scale) (Field, 2009).

Độ tin cậy bên ngoài (external reliability) gồm có 2 loại là test-retest reliabilityinter-rater (inter-observer) reliability. Độ tin cậy test-retest (test-retest reliability) là tính nhất quán theo thời gian (consistency across time) của một thang đo (scale). Tương tự như ví dụ về cái cân, một thang đo hoặc bài test chỉ có thể đáng tin cậy khi nó đưa ra những kết quả nhất quán trong những lần đo khác nhau. Độ tin cậy inter-rater thể hiện qua tính nhất quán giữa những người đánh giá/ người quan sát (inter-rater consistency) khác nhau. Cohen’s kappa là cách tính inter-rater reliability phổ biến và được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu quan sát.

Tóm lại, khái niệm độ tin cậy theo nghĩa rộng là nói về tính nhất quán của kết quả nghiên cứu. Một trong những yếu tố quyết định giá trị của một giả thuyết hoặc lý thuyết chính là độ tin cậy, hay là sự tái lập qua mỗi lần nghiên cứu. Theo nghĩa hẹp và mang tính kỹ thuật hơn thì độ tin cậy là khái niệm nói về độ chính xác (precision) hay là tính nhất quán, trước sau như một (consistency) của một phép đo lường. Nếu phương pháp thu thập dữ liệu không đáng tin thì không thể nào đạt được sự tái lập trong kết quả nghiên cứu. Trong nhiều trường hợp, nhà nghiên cứu sử dụng lại một thang đo có sẵn, khi đó họ cần phải giải trình rằng lý do của việc chọn lựa đó, thông thường là dựa vào độ tin cậy của nó. Độ tin cậy này có thể được tham chiếu từ nghiên cứu trước, và cũng có thể được tính toán lại cho nhóm người tham gia (sample) ngay trong nghiên cứu hiện tại. Có khi, nhà nghiên cứu muốn theo đuổi một khái niệm tâm lý mới mà chưa có nhiều nghiên cứu trước đó, trong trường hợp này, họ có thể tự phát triển một thang đo mới và thiết kế một nghiên cứu riêng để kiểm tra độ tin cậy (reliability) và độ hiệu lực (validity) của thang đo đó. Ta sẽ nói về độ hiệu lực (validity) trong một bài viết khác.

Thứ Tư, 16 tháng 5, 2018

Chọn thiết kế nghiên cứu 3: Sự biến thiên


Để thực hiện được các mục tiêu của nghiên cứu khoa học, chúng ta cần quan sát sự thay đổi ở đại lượng mà ta quan tâm và giải thích cơ chế của sự thay đổi đó. Vì vậy, nhà nghiên cứu sẽ thiết kế một nghiên cứu sao cho có một đại lượng thay đổi, rồi quan sát ảnh hưởng của việc thay đổi này lên một số đại lượng còn lại. Ở đây, tôi đã mượn từ ‘đại lượng’ của các môn khoa học tự nhiên để minh họa cho một đặc điểm cốt lõi của phương pháp định lượng trong nghiên cứu tâm lý là việc định lượng hóa các hiện tượng và khái niệm trừu tượng trong lãnh địa của tâm trí và hành vi con người. Từ khái niệm đến thuộc tính, rồi từ thuộc tính đến một biến số có thể đo lường được, quá trình này được gọi là thao tác hóa khái niệm. 

Như vậy, biến số và sự biến thiên của nó là mối quan tâm của nhà nghiên cứu. Biến thiên (variation), hay còn gọi là phương sai (variance) trong thống kê là một trong những khái niệm nền tảng của các phép tính kiểm định thống kê như phân tích phương sai (ANOVA) hay phân tích hồi quy (regression analysis).  Với sự giúp đỡ của phần mềm thống kê, hầu như bây giờ không ai còn phải tính tay công thức tính của phân tích phương sai nữa, việc hiểu bản chất của công thức này bắt nguồn từ khái niệm biến thiên (hay phương sai) vẫn rất cần thiết vì nó sẽ giúp bạn có một ‘sense’ tốt hơn về tác động của phương pháp nghiên cứu (nghĩa là toàn bộ từ thiết kế nghiên cứu cho đến phân tích thống kê) lên kết quả nghiên cứu. Ở bài này, biến thiên được hiểu theo nghĩa chung nhất đó là sự dao động của một đại lượng và dùng thuật ngữ variation để diễn tả. Biến thiên có thể xảy ra trong một nghiên cứu bởi một trong ba nguyên nhân.

1. Biến thiên hệ thống do điều kiện thí nghiệm (systematic variation due to experimental condition). 

Đây là loại biến thiên mà nhà nghiên cứu mong đợi và là mục tiêu của thiết kế nghiên cứu. Ví dụ, nhà nghiên cứu muốn kiểm nghiệm tác động của việc tập yoga lên cải thiện giấc ngủ của những người bị mất ngủ kinh niên. Ông ta thiết kế nghiên cứu sao cho có một nhóm có tập yoga mỗi ngày 1 tiếng vào buổi sáng, một nhóm không tập yoga (nhóm để so sánh, gọi là nhóm chứng). Sau đó, từng người được hỏi rằng đêm đó họ ngủ bao nhiêu tiếng. Kết quả thu được là những người có tập yoga có giấc ngủ dài hơn những người không tập. Ta nói, sự khác biệt mà ta quan sát được giữa hai nhóm này chính là biến thiên có hệ thống do điều kiện thí nghiệm (tâp yoga).

2. Biến thiên hệ thống do yếu tố nhiễu (systematic variation due to confounders)

Đây là loại biến thiên mà ta không mong đợi nhưng thường sẽ đi kèm theo một cách bất khả kháng trong nhiều trường hợp. Loại biến thiên này gây ra mối đe dọa đối với độ nội hiệu lực của nghiên cứu bởi vì nó làm cho kết quả nghiên cứu trở nên không chắc chắn. Ví dụ, bạn giả thuyết rằng việc xem video bạo lực sẽ gây ra hành vi gây hấn ở trẻ nhỏ. Bạn quan sát và đo lường số giờ trẻ chơi video bạo lực của trẻ trong vòng 1 tuần. Sau đó, bạn quan sát trẻ trong giờ chơi ở trường trong tuần tiếp theo. Những quan sát này dẫn đến kết luận rằng trẻ nào xem video bạo lực thì sẽ có xu hướng có hành vi gây hấn với bạn trong giờ chơi và ngược lại, những trẻ không xem video bạo lực ở nhà thì cũng có xu hướng ôn hòa hơn. Tuy nhiên, có những khả năng khác có thể xảy ra không? Chẳng hạn, những trẻ có hành vi gây hấn là vì chúng có cha mẹ ít quản thúc hơn, vì vậy chúng có cơ hội (1) chơi video bạo lực và (2) dám bộc lộ hành vi gây hấn ra bên ngoài. Như vậy, yếu tố gây ra sự khác biệt về xu hướng gây hấn giữa hai nhóm trẻ (A) có xem video bạo lực và (B) không xem video bạo lực có thể nằm ở một yếu tố thứ ba, đó là phong cách của cha mẹ (parenting style) hơn là do bản thân yếu tố xem video bạo lực (violence exposure). Trong trường hợp này, ta nói rằng phong cách cha mẹ (parenting style) là một yếu tố gây nhiễu (confounder), hay biến nhiễu (confounding variable).

3. Biến thiên không hệ thống do sai số ngẫu nhiên (unsystematic variation due to random errors)

Biến thiên không hệ thống là sự dao động của một đại lượng trong từng cá thể và/ hoặc từng nhóm những cá thể. Sự dao động này là ngẫu nhiên và theo những chiều hướng có thể hoàn toàn trái ngược nhau, có người thì giữ nguyên không thay đổi. Ví dụ, một số học sinh có cùng học lực làm bài kiểm tra học kỳ này tốt hơn học kỳ trước, một vài học sinh khác thì làm tệ hơn kỳ trước, vài học sinh thì có điểm số không thay đổi. Khi cộng lại, sự biến thiên này trở nên không đáng kể. Tương tự, tâm trạng của một người có thể khác nhau tùy hôm. Hôm nay, có người cảm thấy vui vẻ hơn hôm qua, lại có người thấy chán hơn hôm qua, có người thì hôm qua với hôm nay không có gì thay đổi. Như vậy, ta thấy rằng biến thiên không hệ thống có thể làm nhiễu kết quả nghiên cứu theo những chiều hướng mà nhà nghiên cứu không thể biết trước được. Tuy nhiên, đa số đều nhìn nhận rằng biến thiên không hệ thống là một phần của cuộc sống mà hầu như không thể hoàn toàn bị xóa bỏ với những biện pháp đo lường hiện thời của tâm lý học. Có hai kiểu sai số ngẫu nhiên đồng thời gây ra biến thiên không hệ thống là sự khác biệt cá nhân (individual differences)sai số trong đo lường (measurement error).

Sai số trong đo lường (measurement error)

Sai số trong đo lường xảy ra là do các công cụ đo lường không đưa ra kết quả giống nhau về một đại lượng (hiện tượng) trong những lần đo khác nhau. Công cụ đo lường trong nghiên cứu tâm lý có thể là một bài kiểm tra trắc nghiệm (test), bản hỏi (questionnaire), hoặc một quan sát trực tiếp (direct observation). Một ví dụ dễ thấy nhất và có lẽ là nhiều người trong chúng ta từng trải nghiệm qua ít nhất một lần đó là sai số của máy đo chiều cao và cân nặng. Nếu bạn thực sự nặng 52 kg nhưng cân chỉ kết quả 50 kg thì ta nói cân đã có sai số là 2 kg. Nếu chiếc cân này cho ra kết quả lần lượt là 50 kg, 48 kg, 55 kg vào những lần cân khác nhau trong những thời điểm gần nhau (giả định cân nặng thực sự của bạn là 52 kg), thì ta nói rằng chiếc cân đã có sai số đo lường và sai số này là sai số không hệ thống, nói cách khác, nó xảy ra một cách ngẫu nhiên. Nếu ta thực hiện phép cân này rất nhiều lần, kéo dài đến vô hạn, thì sai số này sẽ tịnh tiến về giá trị 0 (trung bình cộng của sai số là bằng tổng số cân nặng trong tất cả các lần cân chia cho số lần thực hiện cân). Trên thực tế, nhà nghiên cứu không cần phải thực hiện vô cực lần đo lường để đạt được sai số bằng zero. Điều mà ông ta làm là giảm thiểu sai số này xuống con số nhỏ nhất có thể và con số này thường được quy ước ngầm. Sai số đo lường có liên quan trực tiếp đến độ tin cậy (reliability) của phép đo lường. Độ tin cậy càng cao, sai số đo lường càng thấp. Vì vậy, khi đọc các bài báo khoa học, bạn sẽ thường hay thấy trong phần phương pháp, tác giả hay nêu rõ là chỉ số độ tin cậy của phép đo lường mà ông ta sử dụng đạt bao nhiêu. Ví du, bài báo viết ‘Inter-rater reliability was achieved with a Cohen kappa coefficient of 0.96….’, nghĩa là theo tiêu chí về độ tin cậy của Cohen thì phép đo lường mà tác giả sử dụng có sai số đo lường là 4%. Bạn đọc không nên cảm thấy lúng túng với các khái niệm mới lạ này, chúng sẽ bàn kỹ về độ tin cậy cách diễn giải ý nghĩa của khái niệm quan trọng này lần lượt trong các bài sau.

Khác biệt cá nhân (individual differences)

Một nguồn khác của sai số không hệ thống là sự khác biệt giữa cá nhân. Mỗi người có những sự khác nhau nội tại hoặc những nguyên nhân nào đó không được tính đến. Chẳng hạn, trong cùng một hoàn cảnh khó khăn như nhau, có những trẻ em lấy đó làm động lực lớn để thoát khỏi nền tảng thấp kém và trở thành những cá nhân ưu tú và thành đạt. Ngược lại, có những trẻ em không thể thoát ra khỏi tình cảnh mà chúng được sinh ra và thậm chí còn tụt dốc hơn hoàn cảnh ban đầu của chúng. Thành quả tích cực mà những cá nhân ở trên đạt được có thể là do những phẩm chất cá nhân bẩm sinh hoặc những yếu tố bên ngoài khác mà nhà nghiên cứu chưa biết. Với các nhà nghiên cứu thí nghiệm (experimental psychologists), sai số do khác biệt cá nhân là điều mà hết sức kiêng kị và ai cũng tìm mọi cách để loại bỏ đi. Trong khi đó, kiểu biến thiên do khác biệt cá nhân này chính là chủ đề nghiên cứu của môn tâm lý học nhân cách (personality psychology). Theo nhà tâm lý nhân cách lỗi lạc của thế kỷ 20, Lee J. Cronbach (1916-2001), các nhà tâm lý học tính cách là những người đi nghiên cứu các biến số mà những nhà nghiên cứu khác, giống như CS. Mỹ Tâm, chỉ muốn nói tha thiết rằng ‘người hãy quên em đi’.

Tóm lại, biến thiên là một khái niệm hữu ích trong phương pháp nghiên cứu và trong phân tích dữ liệu bằng các phép thống kê. Hiểu được khái niệm nền tảng này sẽ giúp cho bạn cảm nhận sự thú vị và tầm quan trọng của các kỹ thuật cụ thể trong quá trình nghiên cứu về sau.

Thứ Ba, 8 tháng 5, 2018

Chọn thiết kế nghiên cứu 2: Quan hệ nhân quả

Nguồn: Internet
Nghiên cứu khoa học trong tâm lý có bốn nhiệm vụ cơ bản, đó là quan sát, mô tả, dự báo, và kiểm soát. Chẳng hạn, nhà khoa học muốn biết tỉ lệ học sinh nam và học sinh nữ có xu hướng học chọn các khối thiên về khoa học tự nhiên và các khối thiên về khoa học xã hội ở Việt Nam, khi đó họ thực hiện nhiệm vụ quan sát và mô tả. Nhưng nếu nhà khoa học đi tìm yếu tố nào ảnh hưởng đến quyết định chọn khối thi đại học của học sinh, khi đó kết quả mà họ tìm được có nhiệm vụ dự báo hoặc đôi khi là kiểm soát. Ví dụ, người ta biết rằng niềm tin của xã hội có ảnh hưởng tới tư tưởng của học sinh từ khi chúng còn nhỏ, rằng con trai giỏi toán còn con gái phải giỏi văn. Niềm tin này dâp tắt suy nghĩ của học sinh về những khả năng khác của chúng và chúng quyết định chọn ngành theo quán tính xã hội thay vì dựa theo thực lực và niềm yêu thích tự nhiên của chính mình. Khi nhà nghiên cứu chỉ ra được điều này, họ có căn cứ để tạo ra những thay đổi trong xã hội nhằm xóa bỏ định kiến giới (kiểm soát).

Tựu chung lại, trọng trách quan trọng cốt lõi của nghiên cứu tâm lý học là đi tìm hiểu và thay đổi các tiến trình tư duy và hành vi của con người để nâng cao chất lượng cuộc sống. Để làm được điều này, quan hệ nhân quả là loại kết luận khoa học được cho là có giá trị nhất và được đánh giá cao bởi vì khả năng dự báo, ảnh hưởng và kiểm soát mà nó mang lại. Có bốn điều kiện để kết luận hai biến X và Y có mối quan hệ nhân quả.

- Có X thì có Y: Nhân và quả xảy ra cùng nhau (hay ta nói, có liên hệ với nhau)
- X có trước rồi mới có Y sau: Nhân trước, quả sau
- X và Y cùng biến thiên: Nhân và quả cùng tăng hoặc cùng giảm (hay ta nói, có mối quan hệ tương quan nhau)
- Chỉ có X mới gây ra Y: Có thể loại trừ tất cả các nguyên nhân khác gây ra Y (hay Y chỉ xảy ra khi X xảy ra)

Ta thử xem xét ví dụ sau. Nhà nghiên cứu đi tìm câu trả lời cho câu hỏi rằng có mối quan hệ nguyên nhân - hệ quả giữa việc cha mẹ ly hôn/ly thân và việc học hành yếu kém ở trường của trẻ không? Nói cách khác, cha mẹ ly hôn/ ly thân (parental separation) liệu có phải là nguyên nhân gây ra việc học kém (poor academic performance) của trẻ? Để trả lời câu hỏi này, nhà nghiên cứu thu thập dữ liệu về một nhóm trẻ và cha mẹ, anh nhận thấy rằng cứ cặp cha mẹ nào ly thân/ ly hôn trong vòng 5 năm trở lại đây thì đứa con của họ đạt học lực từ trung bình trở xuống ở lớp liên tục trong các năm sau đó. Điều này thỏa mãn điều kiện thứ nhất và thứ hai của quan hệ nhân quả.  Hơn nữa, dữ liệu mà anh thu thập được cũng cho thấy rằng thời gian từ lúc cha mẹ ly hôn hoặc ly thân tính tới nay càng dài thì học lực của con cũng kéo dài theo và ngày càng sa sút. Quan sát này đáp ứng điều kiện thứ ba. Khi một mối quan hệ giữa hai biến thỏa mãn ba điều kiện đầu tiên, ta nói hai biến này có mối quan hệ tương quan với nhau (correlation aka. association). Điều kiện thứ tư sẽ khó hơn nhiều bởi vì bạn phải làm sao loại trừ được hết các khả năng thứ ba khác có thể đã gây ra Y. Trong ví dụ trên, nhà nghiên cứu không thể biết chắc liệu ông ta có thể loại trừ tất cả các nguyên nhân khác có thể đã gây ra học lực kém ở trẻ. Có thể việc thiếu giao tiếp hoặc thiếu quan tâm về đời sống cảm xúc, tình cảm giữa cha và mẹ, và giữa cha mẹ với con cái chính là nguyên nhân thực sự đã gây ra cả việc cha mẹ phân ly (X) và việc học hành tụt dốc của trẻ (Y). Hoặc việc cha mẹ phân ly đã dẫn tới việc đời sống tình cảm của trẻ bị bỏ mặc, người cha/mẹ còn lại sinh sống với trẻ không còn trò chuyện, thấu hiểu trẻ, và chính điều này (lack of parental-child communication) đã khiến cho trẻ học hành sa sút, chứ không phải bản thân việc cha mẹ phân ly như ta giả thuyết ban đầu.

Khả năng có nguyên nhân khác (alternative explanations) trong ví dụ trên gây ra mối đe dọa với nội hiệu lực của nghiên cứu (threats to internal validity). (Khái niệm độ hiệu lực - validity là một khái niệm quan trọng mà ta sẽ cùng nói tới rất nhiều trong các bài viết tiếp theo). Như vậy, không nên lầm lẫn tương quan (correlation) và nhân quả (causality). Để có nhân quả, trước hết phải có tương quan. Nhưng có tương quan (thỏa 3 điều kiện đầu tiên của nhân quả) thì chưa chắc có nhân quả. Quả thật, trong ví dụ trên, ta không kết luận được về mối quan hệ nhân quả mà chỉ có thể dừng lại ở tuyên bố về mối quan hệ tương quan giữa hai biến quan tâm.

Tóm lại, giả thuyết về quan hệ nhân quả là giả thuyết quan trọng và thú vị nhất. Nếu ta biết cái gì gây ra một hiện tượng mà ta quan tâm thì ta có thể hiểu chính xác, từ đó dự báo, ảnh hưởng lên và kiểm soát hiện tượng đó tốt hơn. Theo truyền thống, quan hệ nhân quả chỉ có thể được kiểm chứng triệt để nhất bằng thiết kế thí nghiệm thực sự (true experimental design) hay còn gọi là nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên (Randomized Controlled Trials – RCTs). Ngày nay, một số thiết kế đặc biệt và được tiến hành tỉ mỉ và công phu trong khoa học xã hội cũng có thể dùng để tìm quan hệ nhân quả đó là nghiên cứu đoàn hệ (cohort study) hay nghiên cứu theo dòng đời (longitudinal study). Anh là quốc gia phương Tây đầu tiên trên thế giới dùng tiếp cận này trong nghiên cứu khoa học xã hội vào những năm 1946, 1958 và 1971, và còn tiếp tục nhiều cohort như vậy sau mỗi chục năm và cho ra đời những nghiên cứu có giá trị khoa học và ứng dụng cao trong việc vận động thay đổi các chính sách quan trọng về y tế, giáo dục và an sinh xã hội. Các nước Mỹ, Canada, New Zealand, Úc, v.v.. cũng đã nối gót theo Anh và bắt đầu những nghiên cứu tương tự. Năm 2013, Úc vừa công bố báo cáo 30 năm nghiên cứu những trẻ em sinh năm 1983, trong đó đưa ra câu trả lời cho nhiều câu hỏi nghiên cứu rất thú vị.